"Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử, mà còn là một tác phẩm văn chính luận sâu sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình.
Mục lục bài viết
1. Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo:
1.1. Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Trãi:
1.2. Giới thiệu tác phẩm Bình Ngô đại cáo:
Bình Ngô đại cáo được coi là một tác phẩm văn học vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm này được viết vào năm 1928, sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng. Nguyễn Trãi, theo lệnh của vua Lê Lợi, đã viết Bình Ngô đại cáo để tuyên bố chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc, chỉ trích quân xâm lược và ca ngợi thành tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tác phẩm này được xem là một bản tuyên ngôn độc lập, đầy tinh thần chính nghĩa và sự kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.
Bình Ngô đại cáo thể hiện sức mạnh và tư tưởng của nhân dân, cũng như lòng yêu nước sâu sắc. Nó khẳng định rằng, khi đối mặt với giặc ngoại xâm, chúng ta phải chống trả; còn khi yên bình, thì phải lấy nhân nghĩa để bảo vệ và phát triển đất nước, để “trị” dân theo đúng nghĩa của từ.
2. Tóm tắt những luận điểm chính trong bài Bình Ngô đại cáo:
2.1. Mẫu 1 – Tóm tắt những luận điểm chính trong bài Bình Ngô đại cáo:
Luận điểm chính trong bài viết dựa trên các phần sau:
– Văn bản khẳng định rằng Đại Việt là một quốc gia độc lập, có văn hiến và lịch sử lâu đời.
– Giặc Minh đã phạm tội ác khi áp dụng tư tưởng Nho giáo, không tôn trọng nhân nghĩa. Điều này không thể được tha thứ.
– Sự nhân nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn đã đóng góp quan trọng cho chiến thắng của họ.
– Văn bản khẳng định rằng tư tưởng nhân nghĩa đã đóng góp tích cực trong việc duy trì và xây dựng đất nước.
2.2. Mẫu 2 – Tóm tắt những luận điểm chính trong bài Bình Ngô đại cáo:
Bình Ngô đại cáo được tổ chức thành bốn luận điểm chính như sau:
– Luận điểm 1: Quan điểm khẳng định độc lập, chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
– Luận điểm 2: Phân tích về tội ác của giặc Minh khiến cho tư tưởng nhân nghĩa không thể được tha thứ.
– Luận điểm 3: Trình bày về chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn.
– Luận điểm 4: Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa giúp giữ gìn và xây dựng đất nước.
→ Nhận xét: Tác giả đã sắp xếp và tổ chức bốn luận điểm một cách hợp lí, thuyết phục.
2.3. Mẫu 3 – Tóm tắt những luận điểm chính trong bài Bình Ngô đại cáo:
Bài cáo trình bày các luận điểm chính bao gồm:
– Tư tưởng nhân nghĩa của dân tộc Đại Việt
– Tố cáo tội ác của quân Minh,
– Khái quát diễn biến cuộc khởi nghĩa và lời tuyên bố độc lập.
– Nhận xét về cách tổ chức và sắp xếp hệ thống luận điểm của tác giả là hoàn toàn logic, hợp lí và thuyết phục.
3. Mẫu bài phân tích bài Bình Ngô đại cáo:
Nguyễn Trãi là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Việt Nam, không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một nhà văn, nhà thơ và chính trị gia tài năng của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm nổi tiếng bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Trong số đó, “Bình Ngô đại cáo” là một tác phẩm văn học lịch sử được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ bắt nguồn từ Trung Quốc. Tác phẩm này được Nguyễn Trãi viết sau cuộc kháng chiến chống quân Minh và đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nó được coi là “Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc”.
Tác phẩm bắt đầu với một luận đề chính nghĩa, thể hiện tư tưởng về nhân nghĩa – một phạm trù tư tưởng bắt nguồn từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và quan hệ tốt đẹp giữa con người. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa bắt nguồn từ tư tưởng “yên dân” “trừ bạo”. Đây là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo của ông, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc và từ lòng yêu thương nhân dân. Ông khẳng định độc lập dân tộc bằng những chân lý độc lập khách quan và nói lên tư tưởng của bài cáo. Tác phẩm còn miêu tả về nước ta và truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc, phong tục Bắc Nam từ ngàn năm. Điều đặc biệt là thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của Việt Nam với các triều đại phương Bắc, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại, anh hùng ta ngang hàng với các triều đại phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc ta.
Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nguyễn Trãi đã bắt đầu bài cáo của mình bằng hai câu mở đầu, tả lại tư tưởng chủ đạo của tác phẩm – nhân nghĩa, một giá trị tư tưởng xuất phát từ Nho giáo để miêu tả cách thức ứng xử và quan hệ đẹp giữa con người. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa này xuất phát từ tư tưởng “yên dân” và “trừ bạo”. Tư tưởng này được coi là nền tảng của bài cáo, bắt nguồn từ quan điểm tôn trọng và yêu thương nhân dân, và khát khao loại trừ bạo lực, chống lại các thế lực xâm lược. Đồng thời, Nguyễn Trãi cũng đã đề cập đến các chân lý độc lập và khách quan ở phần mở đầu của bài cáo, là cơ sở lý luận bền vững để khẳng định độc lập dân tộc và tư tưởng của bài cáo.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Tương tự, trong một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi đã tạo ra một hình ảnh sâu sắc và chân thật về những truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam. Qua so sánh các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại và anh hùng Việt Nam ngang hàng với các triều đại phương Bắc, đó là cơ sở để khẳng định nền độc lập dân tộc và lòng tự hào của Nguyễn Trãi. Ngoài ra, để làm rõ hơn về giá trị độc lập của nước ta, tác giả còn tả lại sự hào hùng của quân và dân Việt Nam trong những trận chiến vĩ đại trong suốt lịch sử.
Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Thêm vào đó, Nguyễn Trãi đã sử dụng những lập luận phù hợp để tìm hiểu sâu hơn về tội ác và sự man rợ của kẻ thù. Trong những đoạn văn tiếp theo, ông đã phân tích rõ hơn về âm mưu xâm lược của quân Minh vào nước ta.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Quân Minh đã khai thác tình hình hỗn loạn của triều đình Hồ, dùng lời lẽ gian dối “ủng hộ Trần, tiêu diệt Hồ” để xâm lược đất nước. Ông đã tường minh chi tiết về âm mưu xâm lược của kẻ thù. Đồng thời, Nguyễn Trãi cũng đưa ra các hình ảnh, từ ngữ phong phú để tố cáo và vạch trần các tội ác man rợ của quân Minh trên hầu hết các lĩnh vực.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Tội ác đầu tiên của quân Minh được tác giả kể lại là việc tàn sát và giết hại những người dân vô tội. Bằng việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng với các hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, ông đã phác họa một cách sinh động những hành động tàn ác của kẻ thù. Ngay cả những “dân đen”, “con đỏ” – những người vô tội cũng không thoát khỏi số phận bi thảm của mình. Điều này càng chứng minh sự tàn bạo của kẻ thù.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.
Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến các chính sách thuế khóa nặng nề, vô lý và những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên và tiêu diệt đời sống của nhiều loài động vật trên đất nước. Tất cả những điều này đã làm tăng thêm sự ghê tởm và đau đớn của những người dân bị kẻ thù xâm hại.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
…
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.
Với một phong cách văn hùng hồn và đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi đã được lan truyền rộng rãi đến tất cả mọi người. Nó không chỉ khẳng định về nền độc lập, hòa bình, và thống nhất của dân tộc mà còn thể hiện sự ca ngợi và niềm tin vào tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn cho đất nước và dân tộc trong một thời kỳ mới.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử, mà còn là một tác phẩm văn chính luận sâu sắc, kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và trữ tình. Mặc dù đã trải qua hàng ngàn năm phát triển lịch sử dân tộc, giá trị và ý nghĩa to lớn của bài cáo này vẫn được giữ nguyên cho đến ngày nay.