Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lí là một trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước công nhận. Hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về quyền bình đẳng về trách nhiệm pháp lí của công dân.
Mục lục bài viết
- 1 1. Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý là gì?
- 2 2. Lịch sử hình thành của nguyên tắc Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý:
- 3 3. Quy tắc Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý được thể hiện ở:
- 4 4. Ý nghĩa của quy tắc công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý:
- 5 5. Biện pháp hiệu quả để thúc đẩy bình đẳng trước pháp luật:
1. Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý là gì?
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nghĩa là mọi người đều được hưởng các quyền do pháp luật quy định và chịu các nghĩa vụ pháp lý một cách bình đẳng, không ai được hưởng những đặc quyền ngoài pháp luật. Nguyên tắc này có ý nghĩa lịch sử và tiến bộ quan trọng đối với giai cấp tư sản để cuối cùng tiêu diệt chế độ đặc quyền phong kiến. Tuy nhiên, do chế độ tư hữu gây ra, do con người không bình đẳng trong đời sống kinh tế, chính trị và do tồn tại các đặc quyền tư bản nên nguyên tắc này không thể thực hiện được trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Chỉ có hệ thống chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa thì nguyên tắc này mới thực sự được thực hiện công dân bình đẳng trước pháp luật.
2. Lịch sử hình thành của nguyên tắc Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý:
Khẩu hiệu “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” lần đầu tiên được giai cấp tư sản nêu ra trong cuộc đấu tranh chống phong kiến. Như chúng ta đã biết, pháp luật phong kiến là công khai duy trì thứ bậc và đặc quyền, nó không chỉ cho phép địa chủ quan lại được hưởng các đặc quyền phong kiến khác nhau tùy theo số lượng ruộng đất, quan chức lớn nhỏ và chức tước, mà còn làm cho bộ máy quan liêu địa chủ và những người thân trong hoàng tộc không bị ràng buộc bởi luật pháp. Ngoài ra, với tư cách là người thống trị tối cao của xã hội phong kiến, quân vương có thể đứng trên pháp luật. Trong cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế phong kiến, giai cấp tư sản đưa ra khẩu hiệu “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” và đòi xóa bỏ mọi thứ bậc, mọi đặc quyền địa vị, có thể nói đây là một bước tiến bộ vượt bậc, góp phần quan trọng trong việc đánh đổ chế độ phong kiến, chủ nghĩa chuyên chế.
Sau khi cách mạng tư sản thành công, “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” được xác lập như một nguyên tắc quan trọng của chế độ dân chủ tư sản và hệ thống pháp luật, được khẳng định dưới hình thức hiến pháp. Quy định này thường được đưa vào hiến pháp hoặc các văn bản hiến pháp của các nước tư sản. Tuy nhiên, vì chế độ cai trị của giai cấp tư sản dựa trên quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, hệ thống dân chủ và hệ thống pháp luật do nó thiết lập dựa trên quyền sở hữu tài sản không bình đẳng, nên sự bình đẳng về mặt pháp lý mà nó đề cao đã che đậy sự bất bình đẳng trên thực tế tồn tại giữa con người với nhau trong cuộc sống thực. Tóm lại, ở một nước tư bản do giai cấp tư sản thống trị, nhân dân lao động không thể thực sự được hưởng quyền bình đẳng như giai cấp tư sản. Vì vậy, cái gọi là “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” không thể thực hiện được. Như Mác đã chỉ ra, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của giai cấp tư sản chỉ là bình đẳng hình thức.
Việc thành lập một xã hội đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người. Theo những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác, xã hội xã hội chủ nghĩa là giai đoạn đầu tiên của một xã hội cộng sản chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, nhà nước thực hiện chế độ phân phối theo công việc dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (do nước ta đang ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội và sẽ còn ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội trong một thời gian dài, nhà nước thực hiện chế độ kinh tế cơ bản và chế độ phân phối trong đó phân phối theo lao động là chủ thể và nhiều phương thức phân phối cùng tồn tại) và chế độ chính trị do nhân dân làm chủ đất nước. Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, xóa bỏ bóc lột, xóa bỏ phân cực, cuối cùng là đạt được sự thịnh vượng chung, để đạt được Chủ nghĩa Cộng sản tạo điều kiện. Điều này có nghĩa là trong một quốc gia xã hội chủ nghĩa, với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và sự cải tiến liên tục của các hệ thống khác nhau, cuối cùng phải loại bỏ bóc lột kinh tế, và tất cả các chế độ và hệ thống bất bình đẳng và bất công phải bị loại bỏ, tất cả mọi người sẽ được hưởng các quyền do và toàn diện của con người.
Vì vậy, chủ nghĩa xã hội về bản chất là thể hiện yêu cầu của công bằng và bình đẳng, bình đẳng là nội hàm đúng đắn của chủ nghĩa xã hội. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng thể các quy tắc xử sự do cơ quan lập pháp hoặc cơ quan nhà nước của một nước xã hội chủ nghĩa xây dựng và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước, phản ánh lợi ích cơ bản và ý chí chung của nhân dân, mục đích cơ bản của nó là tạo ra một môi trường xã hội công bằng. Bảo đảm mọi người dân bình đẳng tham gia vào sự nghiệp hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, bình đẳng về mọi quyền và lợi ích. Vì vậy, bình đẳng là thuộc tính cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
3. Quy tắc Công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý được thể hiện ở:
Tôn trọng quyền bình đẳng của mọi người trước pháp luật là quan điểm nhất quán của Đảng ta. Là một chính đảng theo chủ nghĩa Mác, lấy hết lòng hết sức phục vụ nhân dân làm mục đích cơ bản, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật làm đường lối chính trị của mình trong các giai đoạn lịch sử cách mạng, xây dựng và đổi mới, ra sức phấn đấu. để hiện thực hóa mệnh đề này.
Có thể thấy từ các quy định có liên quan trong Hiến pháp và pháp luật của nước ta rằng ý nghĩa của bình đẳng trước pháp luật bao gồm ba khía cạnh: thứ nhất, bất kỳ công dân nào, không phân biệt dân tộc, chủng tộc, giới tính, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, trình độ học vấn hoặc tình trạng tài sản. Họ đều bình đẳng hưởng các quyền quy định trong Hiến pháp và luật, đồng thời phải thực hiện bình đẳng các nghĩa vụ quy định trong Hiến pháp và luật. Thứ hai, trong khi mọi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều được bảo vệ như nhau, thì dù có địa vị, quyền lực, địa vị cao đến đâu, nhưng bất kỳ ai vi phạm pháp luật hoặc phạm tội đều phải bị pháp luật trừng trị không trừ một ai. Thứ ba, không công dân nào được hưởng những đặc quyền ngoài pháp luật, không ai được buộc công dân phải thực hiện nghĩa vụ ngoài pháp luật, không công dân nào phải chịu hình phạt ngoài pháp luật.
4. Ý nghĩa của quy tắc công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lý:
Tôn trọng sự bình đẳng của tất cả mọi người trước pháp luật có ý nghĩa to lớn đối với việc củng cố nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy việc xây dựng một nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Trước hết, nó có thể thể hiện đầy đủ tính ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa đặc sắc Việt Nam, để địa vị thống trị của nhân dân trong nhà nước pháp quyền được tôn trọng và bảo đảm, qua đó giúp nâng cao ý thức làm chủ và trách nhiệm của nhân dân.
Thứ hai, nó phản đối rõ ràng đặc quyền, ân huệ ngoài tư pháp, đồng thời tạo ra những ràng buộc đối với những cán bộ lãnh đạo nắm giữ những quyền hạn nhất định, từ đó góp phần ngăn chặn sự xói mòn đội ngũ cán bộ bởi những tư tưởng đặc quyền và các quy định ngầm.
Thứ ba, rõ ràng phản đối sự phân biệt ngoài tư pháp, có lợi cho việc thực hiện nguyên tắc thượng tôn Pháp luật.
Cuối cùng, nó đòi hỏi mọi người phải hành động theo đúng pháp luật, hưởng đầy đủ các quyền do pháp luật quy định và nghiêm túc thực hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy định, có lợi cho việc duy trì thẩm quyền của pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặc sắc Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là mục tiêu tổng quát thúc đẩy toàn diện pháp quyền.
5. Biện pháp hiệu quả để thúc đẩy bình đẳng trước pháp luật:
Phải bảo đảm mọi tổ chức, cá nhân phải tôn trọng thẩm quyền của Hiến pháp và pháp luật, phải hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, phải thực thi quyền hoặc quyền, thực hiện nhiệm vụ hoặc nghĩa vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, không được có những đặc quyền vượt quá Hiến pháp và pháp luật. Nâng cao hơn nữa nhận thức, quan niệm về Hiến pháp và pháp luật của mọi người dân, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, cán bộ các cơ quan nhà nước.
Chúng ta phải hết sức nỗ lực giải quyết những vấn đề vi phạm các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xâm hại đến lợi ích của nhân dân. Trước hết, cán bộ lãnh đạo phải đi đầu trong việc chấp hành pháp luật. Việc gì nhân dân phải làm, thì bản thân người cán bộ lãnh đạo phải làm trước. Thứ hai, phải tăng hình phạt. Những cán bộ thực thi pháp luật không nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, cán bộ lãnh đạo dùng quyền lực chèn ép, lách luật để trục lợi, đã bị kiểm điểm, giáo dục mà không sửa chữa thì phải kiên quyết cách chức hoặc cách chức theo quy định của pháp luật.