Nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên. 27 Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức lối sống. Giải pháp phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Trong suốt thời gian vừa qua, Đảng ta đã luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, luôn kiên định theo chủ nghĩa Mác Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mục tiêu của Đảng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh. Để đạt được những thành tựu đó là những nỗ lực không ngừng của Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đó có sự hi sinh quên mình và quan trọng của đội ngũ cán bộ, Đảng viên. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều lực lượng thù địch trong và ngoài nước luôn tìm cách ngăn cản, phá hoại Đảng và nhân dân ta bằng âm mưu “diễn biến hoà bình” đang tìm mọi cơ hội khoét sâu và lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng ta. Dưới đây là 27 Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên:
Nguyên nhân khách quan ở đây là từ cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu và mặt trái của nền kinh tế thị trường, lợi dụng sự phát triển của khoa học công nghệ toàn cầu và hội nhập quốc tế. Dẫn đến rất nhiều khó khăn, thách thức của các nước đi theo xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch, phản động hiện nay luôn nhăm nhe đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hóa bình” để lợi dụng các vấn đề “Dân chủ”; “Nhân quyền” chúng lợi dụng sơ hở, yếu kém và sự mất cảnh giác của ta để xuyên tạc bóp méo sự thật.
Nguyên nhân sâu xa của việc suy thoái ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân của cán bộ, Đảng viên đó theo tu dưỡng và rèn luyện. Các đối tượng thù địch bên ngoài đã tác động vào những cán bộ, đảng viên thiếu lập trường, tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động dẫn đến việc sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, bổn phận của mình trước toàn Đảng, toàn dân.
Nguyên nhân một phần còn ở công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, Đảng viên về chủ nghĩa nghĩa Mác- lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức và kém hiệu quả. Ngoài ra, việc sinh hoạt Đảng nhất là sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi còn hình thức và đơn điệu. Chưa chú trọng xây dựng cũng như tuyên truyền, nhân rộng những mô hình mới, điển hình tiên tiến, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực.
Một số nghị quyết về xây dựng Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn và thiếu tính khả thi cũng như những chế tài xử lý. Những người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức Đảng chưa có quyết tâm chính trị cao, chỉ đạo thiếu quyết liệt. Việc xử lý cán bộ, Đảng viên còn nương nhẹ do nể nang, thiếu cương quyết.
Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, chồng chéo hoạt động kém hiệu quả. Việc ban hành cơ chế, nghiên cứu, sửa đổi luật pháp còn chưa thích ứng kịp thời với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Hiện nay, việc quản lý thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế còn kém hiệu quả, việc quản lý thông tin còn lỏng lẻo, thiếu giải pháp mạnh để đấu tranh có hiệu quả với vác thông tin còn sai lệch, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị
2. 27 Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức lối sống:
Tại Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa XII do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành ngày 30/10/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống.
Theo đó, trung ương đã chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái thuộc 3 nhóm tư tưởng chính sau:
2.1. Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị:
1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.
7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.
9) Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.
2.2. Biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống:
1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
4) Mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”.
5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên…; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.
7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội… Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.
9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.
2.3. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ:
1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.
2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hoá” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học-nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.
3. Giải pháp phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”:
Nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Hiểu được tầm quan trọng đó các cấp, ủy, tổ chức Đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ, toàn diện, có hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau:
– Về công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình:
+ Tập trung lãnh đạo, chỉ đại và nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
+ Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
+ Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với nhân dân
– Về cơ chế chính sách:
+ Các cấp ủy, tổ chức Đảng chỉ đạo rà soát hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền theo hướng quyền hạn đến đau trách nhiệm đi đôi đến đó
+ Kiên quyết thực hiện đúng mục tiêu có hiệu quả việc sắp xếp lại bộ máy và tinh giảm biên chế
+ Đẩy mạnh xã hội hóa
+ Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, sửa đổi, rà soát hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường quản lý chặt chẽ cán bộ, Đảng viên.
– Về kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng
+ Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát định kỳ hoặc đột xuất việc tổ chức thực hiện các nghị quyết, kết luận của Đảng.
+ Ban chỉ đạo trung ương nâng cao hiệu quả hoạt động về phòng, chống tham nhũng.
+ Tăng thẩm quyền và đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác cán bộ dưới quyền khi có vi phạm.