Chúng ta đều đã từng nghe nhắc đến thuật ngữ biện chứng. Thực chất thì thuật ngữ này cũng đã sớm xuất hiện trong Triết học từ thời kỳ cổ đại. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu biện chứng duy vật là gì? Nội dung phép biện chứng duy vật?
Mục lục bài viết
1. Phép biện chứng duy vật là gì?
Ăng ghen đã đưa ra định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật với nội dung cụ thể như sau: “ Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Bên cạnh đó, các chủ thể là những nhà triết học cũng đã nêu ra định nghĩa về phép biện chứng duy vật dưới nhiều khía cạnh khác nhau trong đời sống xã hội.
Trong quá trình nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ăng ghen đã cho rằng: “Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”. Hay khi nhấn mạnh về vai trò của nguyên lý về sự phát triển, Lênin cũng đã định nghĩa phép biện chứng chính là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không có sự phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức con người, nhận thức con người cũng sẽ phản ánh vật chất luôn phát triển không ngừng.
2. Các giai đoạn phát triển của phép biện chứng duy vật:
Phương pháp biện chứng cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng cũng đã qua ba giai đoạn phát triển, phương pháp biện chứng được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó cụ thể đó là: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
– Phép biện chứng tự phát thời cổ đại:
Các chủ thể là những nhà biện chứng ở cả phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ cổ đại đều đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận.
Tuy nhiên, những gì các chủ thể là những nhà biện chứng thời kỳ cổ đại thấy được đều chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
– Phép biện chứng duy tâm:
Đỉnh cao của hình thức này đã được thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu đó là I. Kant và người hoàn thiện được ghi nhận đó là Hêghen.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các chủ thể là những nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng.
Song theo các chủ thể là những nhà triết học Đức biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức đó là biện chứng duy tâm.
– Phép biện chứng duy vật:
Phép biện chứng duy vật thì đã được thể hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó phép biện chứng duy vật được V.I.Lênin đã phát triển.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm để nhằm mục đích có thể xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
3. Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật:
Từ định nghĩa được đưa ra về phép duy vật biện chứng đã được nêu cụ thể ở bên trên, ta thấy phép biện chứng duy vật có hai đặc điểm cơ bản, cụ thể đó là:
– Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin thực chất là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin là sự khác biệt về trình độ phát triển so với các tư tưởng biện chứng trong các thời kỳ trước học trước đây.
– Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin ta nhận thấy rằng có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật). Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
Vai trò của phép biện chứng duy vật:
Ta nhận thấy rằng, xuất phát từ các ưu điểm tiến bộ của mình, phép biện chứng duy vật trong giai đoạn hiện nay đã trở thành một trong số những nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và đối với phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lê nin, đồng thời phép biện chứng duy vật cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng rạo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Từ đặc trưng và vai trò được nêu cụ thể ở trên của phép biện chứng duy vật, ta thấy phép biện chứng duy vật sẽ tồn tại dựa trên các nguyên lý cơ bản.
4. Quy luật cơ bản của phép duy vật biện chứng:
Phép duy vật biện chứng có 3 quy luật cơ bản, cụ thể bao gồm các quy luật cơ bản sau đây:
– Quy luật thứ nhất: Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất và ngược lại là một quy luật của phép duy vật biện chứng:
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất và ngược lại này là quy luật về phương thức chung của quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nội dung của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất và ngược lại: sự thống nhất về lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật đó. Những thay đổi về lượng khi nó đã dần đạt đến giới hạn nhất định thì sẽ xảy ra bước nhảy khiến chất cũ bị phá vỡ và chất mới cũng từ đó mà sẽ được tạo thành.
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại cũng đã chỉ ra cách thức vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất và ngược lại: Khi chúng ta muốn có được sự thay đổi về chất phải tích lũy về lượng, không được nóng vội và chủ quan. Khi sự tích lũy về lượng đã đủ thì chúng ta cũng sẽ cần thực hiện bước nhảy để có thể tránh bảo thủ, trì trệ. Cần phân biệt và vận dụng một cách sáng tạo bước nhảy.
– Quy luật thứ hai: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một quy luật của phép duy vật biện chứng:
Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập và tạo thành những mâu thuẫn ở trong chính bản thân nó. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập cũng sẽ tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, từ đó mà nó sẽ dẫn đến việc cái cũ mất đi và cái mới cũng sẽ từ đó mà được hình thành.
Ý nghĩa quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Chúng ta cần phải thấy được động lực phát triển của sự vật xuất phát từ những mâu thuẫn trong chính bản thân nó. Việc nhận thức mâu thuẫn trong thực tế cũng là điều rất cần thiết và phải khách quan. Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cũng sẽ cần phải xác định được trạng thái chín muồi của mâu thuẫn để nhằm mục đích có thể kịp thời giải quyết.
Mâu thuẫn giữa các chủ thể sẽ chỉ được giải quyết khi xuất hiện các điều kiện chín muồi, cho nên các chủ thể sẽ không được nóng vội giải quyết khi các chủ thể đó vẫn chưa có điều kiện chín muồi và các chủ thể cũng sẽ không được để việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát.
– Quy luật thứ ba: Quy luật phủ định của phủ định là một quy luật của phép duy vật biện chứng là một quy luật của phép duy vật biện chứng:
Nội dung quy luật phủ định của phủ định là một quy luật của phép duy vật biện chứng: Phủ định của phủ định là khái niệm được dùng nhằm mục đích để chỉ sự vận động, phát triển của sự vật thông qua hai lần phủ định biện chứng, kết quả cua quy luật này đó là quay trở lại điểm xuất phát ban đầu nhưng nó sẽ có sự cao hơn.
Phủ định lần thứ nhất thì sẽ khiến cho sự vật cũ trở thành cái đối lập với chính mình. Những lần phủ định tiếp theo thì nó sẽ hình thành nên sự vật mới và các sự vật mới này đều sẽ mang những đặc trưng của sự vật ban đầu nhưng các sự vật mới lại ở trên cơ sở cao hơn.
Sự phủ định của phủ định được biết đến là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển và sự phủ định của phủ định cũng chính là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo tạo ra đường xoáy ốc của sự phát triển.
Trong thực tế, chúng ta nhận thấy rằng, cứ mỗi chu kỳ phát triển của sự vật thì cũng sẽ có thể bao gồm nhiều lần biện chứng khác nhau.