Tài nguyên du lịch có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với quốc gia. Tài nguyên du lịch đều sẽ được tạo nên từ hai loại tài nguyên đó là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu tài nguyên du lịch nhân văn là gì?
Mục lục bài viết
1. Tài nguyên du lịch nhân văn là gì?
Trước tiên, chúng ta hiểu về tài nguyên du lịch như sau:
Tài nguyên du lịch được hiểu cơ bản chính là tổng thể tài nguyên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của các tài nguyên và văn hóa lịch sử đó đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục và phát triển thể lực, trí lực của con người cũng như khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên du lịch này trong giai đoạn hiện nay cũng đã được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp vào việc sản xuất các dịch vụ du lịch.
Tài nguyên du lịch sẽ bao gồm các cảnh quan thiên nhiên, các yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, các công trình lao động sáng tạo của con người và còn bao gồm cả các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng với mục đích đáp ứng nhu cầu du lịch, việc có các tài nguyên du lịch chính là yếu tố cơ bản nhằm mục đích có thể hình thành các khu du lịch và tuyến du lịch đô thị du lịch.
Từ những phân tích được nêu cụ thể bên trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Tài nguyên du lịch chính là tất cả những gì thuộc về tự nhiên và các giá trị văn hóa. Tài nguyên du lịch do con người tạo ra sẽ có sức hấp dẫn đối với các chủ thể là những khách du lịch, có thể được bảo vệ, tôn tạo và sử dụng cho ngành du lịch và mang lại hiệu quả về kinh tế – xã hội của đất nước và môi trường.
Tài nguyên du lịch nhân văn được hiểu như sau:
Tài nguyên du lịch nhân văn được hiểu là nhóm tài nguyên du lịch có nguồn gốc nhân tạo và do con người sáng tạo ra, tài nguyên du lịch nhân văn cũng chính là những sản phẩm văn hóa có giá trị phục vụ du lịch. Tất cả các ài nguyên du lịch nhân văn đều mang tính phổ biến, có tính truyền đạt, nhận thức nhiều hơn thưởng thức, giải trí.
Các loại hình du lịch nhân văn bao gồm: Các di tích lịch sử, văn hóa; Lễ hội; Dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc; Hệ thống bảo tàng và các sự kiện. Mỗi loại tài nguyên đều có những giá trị và ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn.
2. Tài nguyên du lịch nhân văn trong tiếng Anh là gì?
Tài nguyên du lịch nhân văn trong tiếng Anh được gọi là: Humanistic tourism resources.
3. Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm những gì?
Chúng ta nhận thấy rằng, tài nguyên du lịch nhân văn gồm tài nguyên du lịch nhân văn vật thể và tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể, cụ thể:
Thứ nhất: Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể:
– Các di sản văn hóa là tài nguyên du lịch nhân văn vật thể:
Các di sản được xem là di sản văn hóa nếu như các di sản đó đáp ứng 6 tiêu chuẩn sau:
+ Các di sản được xem là di sản văn hóa khi di sản đó là sản phẩm độc đáo không trùng lặp, thể hiện năng lực và trí tuệ siêu việt của con người
+ Các di sản được xem là di sản văn hóa khi di sản đó có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật cấu tạo không gian trong thời kỳ nhất định trong khung cảnh văn hóa nhất định.
+ Các di sản được xem là di sản văn hóa khi di sản đó là bằng chứng xác thực cho một nền văn minh đã biến mất
+ Các di sản được xem là di sản văn hóa khi di sản đó là ví dụ hùng hồn về thể loại xây dựng hoặc kiến trúc phản ánh một giai đoạn lịch sử có ý nghĩa
+ Các di sản được xem là di sản văn hóa khi di sản đó là ví dụ về một dạng nhà ở truyền thống, thể hiện một nền văn hóa đang có nguy cơ bị hủy hoại trước những biến động không thể ngăn cản được.
+ Các di sản được xem là di sản văn hóa khi di sản đó có mối liên hệ trực tiếp với những sự kiện tín ngưỡng đáp ứng tiêu chuẩn xác thực về ý tưởng trong sáng tạo về vật liệu, các tạo lập và vị trí.
Các di sản văn hóa thực chất chính là sự kết tinh sáng tạo của cả một nền văn hóa của một dân tộc. Khi được công nhận là di sản văn hóa thế giới, các di sản văn hoá này đều sẽ trở thành tài nguyên nhân văn vô giá, các tài sản này đều có sức hấp dẫn khách du lịch đặc biệt là đối với các chủ thể là những khách quốc tế. Ở Việt Nam có 3 di sản văn hóa đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới bao gồm các di sản sau đây: Cố đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn và phố cổ Hội An.
– Các di tích lịch sử văn hóa là tài nguyên du lịch nhân văn vật thể:
Di tích lịch sử văn hóa được hiểu chính là những không gian vật chất cụ thể, khách quan và di tích lịch sử văn hóa sẽ chứa đựng các giá trị điển hình của lịch sử, do tộc thể hoặc cá nhân con người hoạt động và sáng tạo trong lịch sử đã để lại.
Di tích lịch sử văn hóa được chia thành các loại cơ bản như sau:
+ Di tích văn hóa khảo cổ: Di tích văn hóa khảo cổ được hiểu là các địa điểm mà ở đó sẽ ẩn giấu một bộ phận giá trị văn hóa thuộc về thời kỳ lịch sử xã hội loài người thuộc thời gian trong lịch sử cổ đại. Các văn hóa khảo cổ này thường nằm trong lòng đất.
+ Di tích lịch sử: Di tích lịch sử được hiểu là các di tích ghi dấu về dân tộc học, ghi dấu các sự kiện chính trị quan trọng tiêu biểu, ghi dấu chiến công chống quân xâm lược, ghi dấu tội ác của đế quốc và phong kiến và ghi dấu nhiều những giá trị lịch sử khác.
+ Di tích văn hóa nghệ thuật: Di tích văn hóa nghệ thuật được hiểu là các di tích gắn với công trình kiến trúc có giá trị.
+ Danh lam thắng cảnh: Danh lam thắng cảnh được hiểu chính là những nơi mang vẻ đẹp thiên nhiên bao la hùng vĩ, thoáng đãng và các danh lam thắng cảnh này thường sẽ có giá trị nhân văn do bàn tay và khối óc của con người tạo nên. Các danh lam thắng cảnh trên đất nước ta cũng mang giá trị của nhiều loại di tích lịch sử.
– Một số các tài nguyên du lịch nhân văn khác:
Các tài nguyên du lịch nhân văn khác mà chúng ta sẽ có thể kể đến như: các công trình đương đại gồm các tòa nhà, hệ thống cầu cống, đường xá, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các món ăn dân gian hay đặc sản,…cũng có sức hấp dẫn đối với các chủ thể là những khách du lịch.
Thứ hai: Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể:
– Lễ hội là tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể:
Lễ hội chính là các sinh hoạt văn hóa tổng hợp đa dạng và phong phú, lễ hội là kiểu sinh hoạt tập thể của những nhân dân sau thời gian họ đã lao động mệt nhọc hoặc đây chính là dịp được tổ chức để con người hướng về các sự kiện trọng đại cụ thể như ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống để nhằm có thể giúp họ giải quyết những lo âu, khao khát, mơ ước mà cuộc sống thực tại của họ không giải quyết được.
– Nghề và làng nghề thủ công truyền thống là tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể:
Các làng nghề thủ công tại Việt Nam thực chất đều đã xuất hiện khá sớm bởi vì nhu cầu trao đổi sản phẩm của con người cũng đã tạo ra sự phân công lao động đa dạng cùng với sự phát triển của các khu dân công làng xóm sống tập trung theo lưu vực các con sông như: sông Hồng, sông Mã, sông Lam.
Theo thời gian lịch sử, các làng nghề tại Việt Nam vẫn phát triển để nhằm mục đích có thể phục vụ nhu cầu của đời sống sinh hoạt dân cư, đặc biệt tại các khu vực đông dân cư. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta cũng đã ban hành những chính sách nhằm mục đích để có thể khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống.
Các làng nghề truyền thống ở nước ta có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội địa phương, chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng phát triển bền vững, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho những chủ thể là những lao động nông thôn, tạo thu nhập cho những người lao động và các làng nghề truyền thống ở nước ta cũng đã tạo nên sự ổn định trong xã hội cũng như góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập quốc tế.
4. Vai trò của tài nguyên du lịch nhân văn trong phát triển du lịch ở Việt Nam:
Ta nhận thấy rằng, tài nguyên du lịch nhân văn được hiểu chính là một trong những yếu tố tạo nên vùng du lịch, tài nguyên du lịch nhân văn có những ảnh hưởng đến việc tổ chức lãnh thổ vùng du lịch, cấu trúc chuyên môn hóa của du lịch.
Tài nguyên du lịch nhân văn cũng chính là các công trình đương đại do xã hội và cộng đồng con người tạo ra nên nó. Các tài nguyên du lịch nhân văn đều hấp dẫn du khách, có tính truyền đạt nhận thức cao.
Tài nguyên du lịch nhân văn cũng được coi là nguồn tài nguyên du lịch có vai trò đặc biệt trong hoạt động du lịch, tài nguyên du lịch nhân văn cùng với tài nguyên du lịch tự nhiên góp phần thúc đẩy phát triển du lịch và thu về nguồn lợi lớn.
Các tài nguyên du lịch nhân văn cũng sẽ không có bị ảnh hưởng bởi thời vụ, nó cũng sẽ không phụ thuộc vào tự nhiên nên chúng ta sẽ có thể khai thác phục vụ các chủ thể là các khách du lịch quanh năm, tài nguyên du lịch nhân văn mang tính ổn định cao hơn so với tài nguyên du lịch tự nhiên.
Tài nguyên du lịch nhân văn chính là sản phẩm do bàn tay và khối óc của con người tạo ra, tài nguyên du lịch nhân văn cũng thể hiện sức sáng tạo cũng như những giá trị vô hình mà những người đi trước muốn truyền lại. Phát triển tài nguyên du lịch nhân văn cũng sẽ cần đi đôi với bảo tồn và tôn tạo để giúp cho các tài nguyên du lịch nhân văn này còn mãi với đời sau.