Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội? Ví dụ cụ thể? Vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội?
Ý thức xã hội là một thuật ngữ được sử dụng khá nhiều hiện nay. Ý thức xã hội về cơ bản chính là toàn bộ các lĩnh vực tinh thần của đời sống, là nội dung rất quan trọng trong môn Triết học và có những vai trò to lớn trong thực tiễn. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, là do tồn tại xã hội quyết định, nhưng ý thức xã hội lại có tính độc lập tương đối và tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội? Ví dụ và vận dụng?
Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm cụ thể sau đây:
– Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
Lịch sử xã hội đã cho chúng ta thấy được rằng, trong nhiều trường hợp khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng thì nó lại vẫn còn tồn tại. Cụ thể thì điều đó biểu hiện rằng ý thức xã hội muốn thoát ly ra khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội, ý thức xã hội trong trường hợp này đã biểu hiện tính độc lập tương đối.
Ta nhận thấy, ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới chúng ta sẽ cần phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
– Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
Triết học Mác – Lênin đã thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến sẽ có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, các tư tưởng này xuất hiện sẽ dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người.
Lý do mà ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội là do đặc điểm của tư tưởng khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo đúng tồn tại xã hội trong tương lai.
Khi chúng ta nói rằng, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
– Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển:
Trong lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà những quan điểm lý luận này sẽ được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Vì vậy, khi chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Bởi vì ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi các chủ thể thực hiện việc nghiên cứu một tư tưởng nào đó đều sẽ cần phải dựa và quan hệ kinh tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó.
– Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng:
Ta nhận thấy rằng, ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa các bộ phận hay các hình thái này sẽ không tách rời nhau, mà nhiều bộ phận, nhiều hình thái này sẽ thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động giữa nhiều bộ phận, nhiều hình thái đó làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại khác nhau và tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác nhau.
– Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội mà chủ nghĩa duy vật lịch sử còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội.
Ph.Ăng ghen từng viết như sau: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể và cũng căn cứ vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.
Ta nhận thấy rằng, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội cũng đã bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
2. Ví dụ cụ thể:
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
Ví dụ như ý thức tư tưởng phong kiến, phản ánh xã hội phong kiến, nhưng khi xã hội phong kiến đã thay đổi thì ý thức vẫn chưa thay đổi kịp về các tư tưởng như: trọng nam khinh nữ, ép duyên, gia trưởng. Cho đến tận giai đoạn ngày nay thì các tư tưởng này vẫn còn xuất hiện trong nhận thức của nhiều người.
Ý thức xã hội có thể vượt trước sự tồn tại xã hội:
Ví dụ như ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn đang ở trong thời kỳ phát triển tự do cạnh tranh thì Các Mác đã đưa ra dự báo rằng quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế trong thời gian tới.
Ý thức хã hội có tính kế thừa trong ѕự phát triển của mình:
Ví dụ như khi làm cách mạng tư ѕản chống phong kiến, các chủ thể là những nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư ѕản đã khôi phục những tư tưởng duу ᴠật ᴠà nhân bản của thời cổ đại.
Ngược lại ta nhận thấy thấy những giai cấp lỗi thời ᴠà các nhà tư tưởng của nó thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, những lý thuуết хã hội phản tiến bộ của những thời kỳ lịch ѕử trước.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức хã hội trong ѕự phát triển của chúng:
Ví dụ như ở Hу Lạp cổ đại, triết học ᴠà nghệ thuật đóng ᴠai trò đặc biệt to lớn; còn ở Tâу Âu trung cổ thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần хã hội như triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quуền. Ở giai đoạn lịch ѕử ѕau nàу thì ý thức chính trị lại đóng ᴠai trò to lớn tác động đến các hình thái ý thức хã hội khác. Ở Pháp nửa ѕau thế kỷ XVIII ᴠà ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học ᴠà ᴠăn học là công cụ quan trọng nhất để nhằm mục đích có thể tuуên truуền những tư tưởng chính trị, là ᴠũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng хã hội tiên tiến.
Ta nhận thấy rằng, trong ѕự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có ᴠai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng cũng đã đưa ra những định hướng cho ѕự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện naу, những hoạt động tư tưởng như triết học, ᴠăn học nghệ thuật hay nhiều hoạt động tư tưởng khác mà tách rời đường lối chính trị đúng đắn của Đảng ѕẽ không tránh khỏi rơi ᴠào những quan điểm ѕai lầm, không thể đóng góp tích cực ᴠào ѕự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Ý thức xã hội tác động trở lại sự tồn tại xã hội:
Ví dụ như hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội của các nước Tây Âu vào thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản đã trở thành vũ khí về mặt tư tưởng cho giai cấp vô sản đứng lên đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội được biểu hiện qua hai chiều hướng. Khi ý thức xã hội tiến bộ thì sẽ có tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, còn ý thức xã hội lạc hậu sẽ gây cản trở cho sự phát triển của tồn tại xã hội.
3. Vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Trên thực tế thì ở giai đoạn hiện nay, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội sẽ cần phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó. Bên cạnh đó thì cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng.
Cũng chính bởi vì thế, trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới cần phải được tiến hành song song trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là điều kiện cơ bản nhất để nhằm mục đích có thể thay đổi ý thức xã hội cũ.
Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Từ những phân tích trên, ta thấy rằng, nguyên lý của triết học Mác Lênin về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung. Thực tiễn khi vận dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vào đời sống có những ý nghĩa và đem lại hiệu quả to lớn.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta cũng đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá của Việt Nam.
Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội. Việc kế thừa và sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội giúp hệ tư tưởng chính trị và khoa học tại đất nước ta trở nên tiên tiến và phát triển nhanh chóng hơn.
Đây cũng là cơ sở lý luận để quán triệt quan điểm của Đảng ta trong việc kết hợp phát triển kinh tế với xây dựng nền văn hóa mới, và con người mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.