Trong cuộc sống đời thường hay trong những câu được dùng trong văn học thì không thể nào không nhắc đến và bỏ qua sự hiện diện của từ. Bởi vì từ được nhận định giống như những viên gạch để xây dựng thành câu, từ câu sẽ thành những đoạn. Cùng tìm hiểu từ là gì?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm từ là gì?
Trong ngôn ngữ học, một từ của ngôn ngữ nói có thể được định nghĩa là một chuỗi âm vị nhỏ nhất có thể được phát ra một cách riêng biệt với ý nghĩa khách quan hoặc thực tế. Trong nhiều ngôn ngữ, các từ cũng tương ứng với chuỗi grapheme (“chữ cái”) trong hệ thống chữ viết tiêu chuẩn của chúng được phân định bằng khoảng cách rộng hơn khoảng cách giữa các chữ cái thông thường hoặc bằng các quy ước đồ họa khác. Khái niệm “từ” thường được phân biệt với morpheme, là đơn vị nhỏ nhất của từ có nghĩa, ngay cả khi nó không đứng riêng với nhau hoặc trong các từ nhỏ khác.
Trong nhiều ngôn ngữ, khái niệm về những gì tạo thành một “từ” có thể được học như một phần của việc học hệ thống chữ viết. Đây là trường hợp của ngôn ngữ tiếng Anh và đối với hầu hết các ngôn ngữ được viết bằng bảng chữ cái bắt nguồn từ bảng chữ cái Latinh hoặc Hy Lạp cổ đại.
Vẫn chưa có sự đồng thuận giữa các nhà ngôn ngữ học về định nghĩa thích hợp của “từ” trong một ngôn ngữ nói độc lập với hệ thống chữ viết của nó, cũng như về sự phân biệt chính xác giữa nó và “morpheme”. Vấn đề này đặc biệt được tranh luận đối với tiếng Trung và các ngôn ngữ khác của Đông Á.
Trong ngôn ngữ thì từ lại được nhận định là một đơn vị có sẵn, và nó là đơn vị nhỏ nhất. Cũng chính vì nó là đơn vị nhỏ nhất nên mang trong mình một cấu tạo ổn định, đồng thời nó mang đến cho chúng ta ý nghĩa hoàn chỉnh khi được con người sử dụng để ghép các từ cấu tạo nên một câu hoàn chỉnh. Từ có thể làm tên gọi của sự vật (danh từ), chỉ các hoạt động (động từ), trạng thái, tính chất (tính từ) … Từ là công cụ biểu thị khái niệm của con người đối với hiện thực.
Theo như ngôn ngữ học thì từ lại được nhận định là những đối tượng được sử dụng trong hoạt động nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau hoàn toàn về hình thái học, cấu tạo từ, ngữ âm học, cú pháp học, phong cách học,… Từ đó mà từ được nhận định với cơ cấu và công dụng khác nhau như sau:
– Thứ nhất, về chức năng từ: như đã được tác giả nêu ra ở trên thì từ được nhận định là đơn vị dùng để đặt câu. Dựa trên đặc điểm nhỏ bé này mà các nhà học thuật dùng nó để phân biệt từ với tiếng. Bởi vì, tiếng được nhận định là chỉ có chức năng cấu tạo từ. Những tiếng có thể dùng độc lập để đặt câu được gọi là từ đơn.
Ví dụ: từ học sinh gồm hai tiếng: học + sinh.
– Thứ hai, không thể nào bỏ qua đó chính là về cấu trúc của từ: trong số các đon vị dùrg để đặt câu, từ là đon vị nhỏ nhất. Nhờ đặc điểm này mà phân biệt từ với đơn vị bậc trên nó là cụm từ.
Ví dụ: Trong câu: Sáng sáng, em đi học. gồm có 4 từ: sáng sáng, em, đi, học.
– Cuối cùng đó chính là một nhận định của tác giả là đa số các tiếng trong tiếng Việt có nghĩa, ví dụ: nhà, mẹ, vui, hoa…, bên cạnh những tiếng được nhận định là có nghĩa thì cũng có tiếng lại được nhận định là tiếng không có nghĩa, ví dụ: loắt (trong từ loắt choắt), xắn (trong từ xinh xắn),…
Từ những định nghĩa vừa được nêu ra ở trên thì có thể phân loại từ theo cấu tạo ngữ pháp: dựa vào số lượng tiếng trong từ, có các loại từ sau:
– Từ đơn: từ chỉ gồm một tiếng (ví dụ: cá, thóc, vua, mèo,…).
– Từ phức: từ gồm hai hoặc nhiều tiếng (ví dụ: sách giáo khoa, con cháu, lom khom,…). Trong đo, Từ phức được phân thành từ ghép và từ láy.
+ Từ ghép: từ được tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa (ví dụ: ông bà, con cháu, hoa quả, xe đạp,…).
+ Từ láy: từ có quan hệ láy âm giữa các tiếng (ví dụ: ỉoắt choắt, lác đác, sạch sành sanh,…).
Từ tạm được dịch sang tiếng anh là: “Word”.
2. Cấu tạo từ trong tiếng Việt:
Đơn vị cơ sở để cấu tạo của từ trong tiếng Việt là các tiếng, nói một cách chính xác theo ngôn ngữ học thì cái mà ngữ âm học vẫn gọi là các âm tiết, do đó mà có thể đưa ra nhận định rằng ” Tiếng là đơn vị cấu tạo nên từ. Từ đó, các nhà nghiên cứu cụng dựa vào đó để phân loại nên từ đơn và từ phức. Do đó, đối với những từ chỉ gồm 1 tiếng được khẳng định là từ đơn, từ gồm nhiều tiếng hoặc 2 tiếng thì lại được quy định là từ phức. Từ phức được tạo ra bằng cách ghép một số từ có quan hệ nghĩa. Từ ghép là những từ phức có mối quan hệ về âm tiết giữa các tiếng.
Như vậy, có thể thấy rằng từ trong tiếng việt theo như quy định thì có thể bao gồm một âm tiết hoặc là một tổ hợp các âm tiết. Phương pháp sử dụng một âm tiết như một từ cho chúng ta những từ đơn giản (còn gọi là từ đơn tiết). Từ đơn ở đây được hiểu là từ ghép của một ngôn ngữ.
Phương thức tổ hợp (ghép) các tiếng lại, mà giữa các tiếng (thành tố cấu tạo) đó có quan hệ về nghĩa với nhau, sẽ cho ta những từ gọi là từ ghép. Dựa vào tính chất của mối quan hệ về nghĩa giữa các thành tố cấu tạo, có thể phân loại từ ghép tiếng Việt như sau:
– Từ ghép đẳng lập.
– Từ ghép chính phụ.
Tối giản về cú pháp lý thuyết, các từ (còn được gọi là các mục từ vựng trong tài liệu) được hiểu là “bó” các đặc điểm ngôn ngữ được liên kết thành một cấu trúc có hình thức và ý nghĩa. Ví dụ: từ “gấu túi” có các đặc điểm ngữ nghĩa (nó biểu thị các đối tượng trong thế giới thực, gấu túi), đặc điểm danh mục (nó là một danh từ), đặc điểm số (nó là số nhiều và phải đồng ý với các động từ, đại từ và biểu tượng trong miền của nó. ), các đặc điểm âm vị học (nó được phát âm theo một cách nhất định), v.v.
Từ ngữ được coi là đơn vị lời nói có ý nghĩa nhỏ nhất có thể tự đứng được. Điều này tương quan giữa âm vị (đơn vị âm thanh) với từ vựng (đơn vị nghĩa). Tuy nhiên, một số từ viết ra không phải là dạng tự do tối thiểu vì bản thân chúng không có ý nghĩa gì (ví dụ, dấu và của).
Một số nhà ngữ nghĩa học đã đưa ra một lý thuyết về cái gọi là nguyên thủy ngữ nghĩa hoặc số nguyên tố ngữ nghĩa, những từ không thể xác định được đại diện cho các khái niệm cơ bản có ý nghĩa trực quan. Theo lý thuyết này, các số nguyên tố ngữ nghĩa đóng vai trò là cơ sở để mô tả ý nghĩa, không có tính tuần hoàn, của các từ khác và các biểu thị khái niệm liên quan của chúng.
Đã có nhiều tiêu chí được đề xuất để xác định các từ. Tuy nhiên, không có định nghĩa nào được tìm thấy để áp dụng cho tất cả các ngôn ngữ. Các từ điển phân loại từ vựng của một ngôn ngữ (tức là từ vựng của ngôn ngữ đó) thành các bổ đề. Chúng có thể được coi là một dấu hiệu về những gì tạo thành một “từ” theo ý kiến của các nhà văn của ngôn ngữ đó. Phương tiện thích hợp nhất để đo độ dài của một từ là đếm các âm tiết hoặc morphemes của nó. Khi một từ có nhiều định nghĩa hoặc nhiều nghĩa, nó có thể dẫn đến nhầm lẫn trong cuộc tranh luận hoặc thảo luận
Nhiệm vụ xác định những gì cấu thành một “từ” bao gồm việc xác định vị trí của một từ kết thúc và một từ khác bắt đầu — nói cách khác, xác định các ranh giới của từ. Có một số cách để xác định vị trí ranh giới từ của ngôn ngữ nói:
Khả năng tạm dừng: Một người nói được yêu cầu lặp lại một câu đã cho một cách chậm rãi, cho phép tạm dừng. Người nói sẽ có xu hướng chèn các khoảng dừng ở ranh giới từ. Tuy nhiên, phương pháp này không an toàn: người nói có thể dễ dàng chia nhỏ các từ đa âm tiết hoặc không tách được hai hoặc nhiều từ được liên kết chặt chẽ hơn (ví dụ: “to a” trong “Anh ấy đã đi đến một ngôi nhà”).
Tính không thể chia tách: Người nói được yêu cầu nói to một câu, sau đó được yêu cầu nói lại câu đó với các từ bổ sung được thêm vào. Vì vậy, tôi đã sống ở ngôi làng này trong mười năm có thể trở thành gia đình của tôi và tôi đã sống ở ngôi làng nhỏ này trong khoảng mười năm hoặc lâu hơn. Những từ thừa này sẽ có xu hướng được thêm vào trong ranh giới từ của câu gốc. Tuy nhiên, một số ngôn ngữ có các tiền tố, được đặt bên trong một từ.
3. Ví dụ cụ thể về từ:
Ví dụ:
Câu thơ “Trong lời mẹ hát” của Trương Nam Hương
“Thời gian chạy qua tóc mẹ
Một màu trắng đến nôn nao”.
Ta thấy: Hai dòng thơ có 12 tiếng và 9 từ (Thời gian, chay, qua, tóc, mẹ, một, màu trắng, đến, nôn nao)