Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu cơ chế kinh tế vừa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội trên ba phương diện: sở hữu, quản lý và phân phối. Vậy quy định về đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được quy định như thế nào?
Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568
Mục lục bài viết
1. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
– Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan
Các thế lực thù địch, phản động, “dân chủ” không ngừng chớp thời cơ tăng cường chống phá bằng mọi cách. Lợi dụng quyền tự do, dân chủ, chúng đã đăng lên mạng xã hội hàng loạt bài viết phê phán quan điểm, chủ trương của ĐCSVN về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với thủ đoạn “trò mèo vờn chuột”, chúng cố ngụy biện rằng, ngay từ khi ĐCSVN lần đầu đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, nó chưa bao giờ xác định rõ khái niệm, hàm chứa những mâu thuẫn nội tại. Những người có quan điểm đối lập với Đảng cố tình xuyên tạc sự phát triển tư tưởng lý luận của ĐCSVN.
Đặc biệt là họ dựa vào các tiêu chí của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường để cho rằng ĐCSVN đã vay mượn hoặc sử dụng các khái niệm gian dối. Thậm chí, một số ý kiến còn khẳng định mạnh mẽ rằng nền kinh tế thị trường gắn với các giá trị phổ quát của con người khi được gắn thêm mác “định hướng xã hội chủ nghĩa” sẽ tạo ra một mô hình kinh tế “quái dị”, hay kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa từng có trong lịch sử. Nếu được áp dụng, nó sẽ tạo ra những trở ngại cho sự phát triển, sản xuất, năng suất lao động và khả năng sáng tạo của Việt Nam.
Trước Đại hội Đảng lần thứ VI, những người cộng sản Việt Nam, mặc dù phải đối mặt với nhiều bế tắc của đất nước do đói nghèo và khủng hoảng, nhưng đã nỗ lực tìm ra con đường thừa nhận sự tồn tại của các yếu tố hợp lý của nền kinh tế hàng hóa trong cơ chế kinh tế bao cấp. Bắt đầu từ những hợp đồng có lợi và không có lợi, việc đổi mới cơ chế quản lý trong doanh nghiệp và như vậy đã bước sang một trang mới của công cuộc đổi mới đất nước tại Đại hội VI. Trong đó chính thức đề cập đến sản xuất hàng hoá và “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa” (Đại hội VI của ĐCSVN, 1986). Đó thực chất là một bước ngoặt của ĐCSVN khi chấp nhận sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Đại hội VII (năm 1991) xác định xây dựng “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động trên cơ sở cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) chủ trương xây dựng “nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội IX của ĐCSVN (2001) khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, đã 15 năm kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được chính thức xác định tại Đại hội IX của Đảng.
Nói cách khác, đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành dưới sự quản lý của Nhà nước.
– Cơ chế thị trường phấn đấu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, bình đẳng, văn minh:
So với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có cả những điểm giống và khác nhau về bản chất. Những điểm tương đồng của nó với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại là: dựa trên chế độ phân phối sở hữu và đa sở hữu; nền kinh tế được vận hành chủ yếu theo cơ chế thị trường; có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước; hình thức phân phối đa dạng.
2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Để thực hiện âm mưu thâm độc làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng ta, các thế lực thù địch, phản động cùng với các “nhà dân chủ” đã sử dụng nhiều màn khói, lợi dụng một số hạn chế về quản lý kinh tế hiện nay để bịa đặt một số thông tin. khó kiểm chứng và khó hiểu để người đọc phân biệt đâu là thật, đâu là giả. Họ đã tạo ra những câu chuyện “gây sốc”. Ví dụ, sự suy yếu của cạnh tranh quốc tế, cũng như sự tăng trưởng chậm chạp và không ổn định của kinh tế vĩ mô ở Việt Nam là do nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, chính nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm cho bộ máy tăng trưởng kinh tế hoạt động sai lệch, nguồn lực xã hội khai thác kém hiệu quả, thua lỗ, nợ nần chồng chất. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường với nền tảng “méo mó”, “biến dạng” sẽ làm cho nền kinh tế kém sức cạnh tranh và khu vực tư nhân bị chèn ép, làm hạn chế sự phát triển. Chúng còn gây ra một số hệ lụy khác như tham nhũng, lãng phí, nợ khó đòi … Những luận điệu này không chỉ là ngụy biện mà còn có ý đồ thâm độc nhằm phủ nhận sự chỉ đạo, lãnh đạo của ĐCSVN, nhất là chủ trương phát triển xã hội chủ nghĩa. – Nền kinh tế thị trường định hướng, đã được chứng minh hiệu quả trên thực tế.
Sau gần 35 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã thu được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, mở đường cho sự nghiệp đổi mới và phát triển trong thời gian tới. Nền kinh tế phát sinh liên tục, trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh; kinh tế vĩ mô ổn định và từng bước được củng cố; năng lực cạnh tranh, tiềm lực và quy mô nền kinh tế được nâng lên. Việc củng cố, chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị, nhất là đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, tạo được nhiều đột phá và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Theo đó, họ đã được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, tin tưởng và ủng hộ. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được tăng cường, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; ngoại giao quan hệ hữu nghị và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, năm 2019, kinh tế Việt Nam lần đầu tiên vươn lên nửa đầu bảng xếp hạng thế giới, xếp thứ 67/141 (tăng 10 bậc so với năm 2018), đứng thứ 8 trong số các nền kinh tế tốt nhất thế giới để đầu tư. trong (tăng 15 bậc so với năm 2018).
Có những mục tiêu tưởng chừng khó đạt được đồng thời thường dẫn đến sự đánh đổi trong quá trình phát triển như quy mô kinh tế càng lớn thì càng khó tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, điều này không đúng ở Việt Nam. Năm 2018, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt gần 250 tỷ USD, gấp 9,3 lần so với thời điểm bắt đầu Đổi mới năm 1986 và gần 1,3 lần so với năm 2015. Đầu Đại hội Đảng lần thứ XII năm 2016, chúng ta đã đạt tốc độ tăng 6,21%; trong khi đó, năm 2019 tăng trưởng 7,02%, nâng quy mô nền kinh tế năm 2019 lên hơn 262 tỷ USD (5).
Một số chương trình phát triển kinh tế – xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dễ bị tổn thương được triển khai với kết quả rõ nét. Đến nay, các xã, cụm dân cư đã có đủ các công trình xã hội thiết yếu như điện, đường, trường, trạm y tế. Tăng trưởng ngành nông nghiệp luôn có xu hướng đi lên, ghi nhận ở mức 3,65% trong năm 2018, mức cao nhất kể từ năm 2012. Xuất khẩu nông sản năm 2018 đạt trên 40,5 tỷ USD. Năm 2019, do ảnh hưởng nặng nề của dịch tả lợn Châu Phi, tăng trưởng của ngành chỉ là 2,2%; tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch được giao. Theo đó, xuất khẩu nông sản cả năm 2019 đạt 41,3 tỷ USD, xuất siêu 10,4 tỷ USD. 54% xã và khoảng 111 huyện đạt chuẩn nông thôn mới … (8)
GDP bình quân đầu người năm 2019 đạt gần 2.800 USD (nếu bỏ quy mô nền kinh tế là trên 3.000 USD), tăng hơn 700 USD so với năm 2015. Tỷ lệ hộ đói, nghèo đã giảm xuống. nhanh, luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra theo định kỳ cũng như hoàn thành và hoàn thành vượt mức mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo. Năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo còn 5,2 – 5,7%, giảm 1-1,5% (riêng các huyện nghèo giảm trên 4%).