Gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội có các chức năng sinh học như sinh sản, các chức năng xã hội liên quan đến nuôi dưỡng và xã hội hóa trẻ em. Để hiểu được những đặc điểm của gia đình với tư cách là một thiết chế, cần phải hiểu mục đích, sự tồn tại và nguồn gốc của nó.
Mục lục bài viết
1. Thiết chế gia đình là gì?
– Thiết chế gia đình (Family Institution) một gia đình có thể được coi là một nhóm được cố ý tạo ra hoặc được tạo ra bởi đức hiếu sinh. Nó có thể được tạo ra để phục vụ các mục đích khác nhau như bảo vệ và an ninh, cảm giác thân thuộc, hành vi được kiểm soát và có kỷ luật và thậm chí cho mục đích giao phối.
– Từ gia đình được cho là có nguồn gốc từ tiếng La Mã ‘famulus’ có nghĩa là người hầu và từ tiếng Latinh ‘Famil’ có nghĩa là hộ gia đình. Do đó, nghĩa từ nguyên của từ gia đình sẽ là “Gia đình thường được coi là cơ sở của phần lớn hoạt động xã hội của một người. Nó là một đơn vị xã hội được tạo ra bởi huyết thống, hôn nhân hoặc nhận con nuôi, với mục đích hỗ trợ và cùng phát triển.
2. Các đặc điểm của thiết chế gia đình:
– Các đặc điểm của thiết chế gia đình có thể được chia thành các đặc điểm chung và đặc thù khác nhau, có thể áp dụng hoặc không áp dụng cho tất cả các gia đình nhưng thường được tuân thủ Các đặc điểm chung của thể chế gia đình có thể được giải thích như sau:
– Những đặc điểm chung được coi là những đặc điểm mang tính phong tục và áp dụng chung cho mọi gia đình và là cơ sở để hình thành và duy trì gia đình như một thể chế.
– Theo JL Rachroo, “gia đình là một khái niệm chung, là ham muốn tình dục của đàn ông và phụ nữ, mong muốn sinh con của người phụ nữ, của người đàn ông để duy trì dòng dõi của mình và của cả hai để chăm sóc sinh sản của họ, cùng với mong muốn an toàn kinh tế để giải trí và vui thú trên cơ sở phân công lao động có thể đã góp phần vào nguồn gốc của gia đình.
– Tính phổ biến: gia đình tồn tại ở mọi thời đại và trong mọi xã hội, tức là mọi cá nhân đều đã hoặc đang là một bộ phận của gia đình. Nó không bao giờ xảy ra rằng một cá nhân không bao giờ có một gia đình như một gia đình là một điều cần thiết. Cần phải hiểu rằng đối với một đứa trẻ sinh ra và bị cha mẹ bỏ rơi là gia đình trực hệ của nó cho đến khi nó kết hôn và lập gia đình riêng.
– Nơi ở cố định: trong cuộc sống hàng ngày nếu một cá nhân không có nhà thì cuộc sống sẽ là một trong những bất ổn lớn vì nó sẽ hỗn loạn trong tự nhiên. Một gia đình có một nơi sinh sống cụ thể được gọi là nhà và nó cung cấp một không gian an toàn cho tất cả các thành viên trong gia đình đó được gọi là ‘thiên đường’. Nó cũng cung cấp trật tự cho cuộc sống của con người.
– Ổn định kinh tế hoặc các khoản dự phòng tài chính: Mỗi gia đình đều có một số hoặc loại dự phòng tài chính khác giúp đáp ứng nhu cầu của tất cả các thành viên trong gia đình. Điều khoản này có thể là do làm việc và kiếm tiền trong nhà. Ví dụ, một người cha trong một gia đình được coi là người kiếm tiền nuôi gia đình và anh ta phải đi làm và kiếm tiền để nuôi sống gia đình.
– Ý thức trách nhiệm giữa các thành viên: gia đình là một nhóm người có quan hệ mật thiết với nhau mà mỗi cá nhân đều có trách nhiệm đối với các thành viên khác trong gia đình. Gia đình cung cấp sự an toàn đầy đủ cho tất cả các thành viên kể cả người già và trẻ nhỏ. Ví dụ, khi trách nhiệm đó bị bỏ qua như trong trường hợp bỏ rơi một đứa trẻ hoặc một người mẹ già hoặc người cha, nó sẽ dẫn đến sự tan vỡ của gia đình, tức là nó làm mất tổ chức một gia đình.
– Kết nối / hỗ trợ / cơ sở tình cảm: các mối liên kết hòa nhập trong một gia đình là tình cảm và quan hệ huyết thống lẫn nhau. Một gia đình là một thực thể khép kín và được gắn kết với nhau không chỉ nhờ thẻ mà còn do các ràng buộc tình cảm. Ví dụ, một người mẹ vì đứa trẻ có thể hy sinh rất nhiều điều mà cô ấy sẽ kiêng nể vì người khác, điều này xảy ra do mối liên hệ tình cảm giữa họ.
– Mối quan hệ giao phối: sự tồn tại cơ bản của một gia đình phụ thuộc vào mối quan hệ giao phối. Một gia đình hình thành khi một người nam và một người nữ có quan hệ giao phối. Mối quan hệ này cũng hỗ trợ định chế hôn nhân. Nó cũng điều chỉnh hành vi của các thành viên khác nhau trong gia đình như duy trì sự chung thủy hoặc độc quyền về tình dục.
– Một hình thức hôn nhân / ủng hộ thiết chế hôn nhân: một gia đình ủng hộ trước thiết chế hôn nhân. Người ta cho rằng một mối quan hệ giao phối được thiết lập thông qua thể chế hôn nhân.
3. Chức năng của thiết chế gia đình:
– Chức năng chính của gia đình được coi là sự tiếp nối của loài người, thông qua việc sinh ra và nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em một cách hợp lý, bên cạnh đó, một gia đình giúp đáp ứng nhu cầu tình dục đồng thời mang lại cảm giác gắn bó và chung thủy về tình dục. Vì vậy, giống như mọi thể chế khác, thể chế gia đình có những đặc điểm nổi bật khác nhau khiến nó trở nên rất cần thiết và quan trọng trong đời sống con người và cũng giúp nó thực hiện vai trò của mình.
– Thiết chế gia đình có ba chức năng quan trọng: (1) Để cung cấp cho việc nuôi dạy trẻ em, (2)Để cung cấp cảm giác về bản sắc hoặc sự thuộc về giữa các thành viên của nó, (3) Để truyền tải văn hóa giữa các thế hệ Trong các xã hội phương Tây, chúng ta có xu hướng nghĩ về một gia đình bao gồm mẹ, cha và con cái sống chung dưới một mái nhà: một gia đình hạt nhân . Trước khi xã hội hiện đại hóa, gia đình thường bao gồm nhiều thế hệ và nhiều nhánh của đại gia đình sống trong cùng một ngôi nhà, hoặc trong cùng một làng. Khi quá trình hiện đại hóa xảy ra, những người trẻ tuổi có xu hướng rời khỏi các ngôi làng mà họ đã lớn lên để tìm kiếm việc làm, bỏ lại các thế hệ cũ ở lại phía sau. Họ chuyển đến các thành phố và gặp gỡ những người mà họ có thể sẽ không bao giờ gặp nếu họ ở nhà. Người dân trong các xã hội hiện đại hóa, đô thị hóa gặp gỡ vợ hoặc chồng một mình thay vì được các thành viên trong gia đình giới thiệu, kết hôn và định cư ở những địa điểm thường xa cộng đồng gốc của họ.
– Hôn nhân, nền tảng của cuộc sống gia đình, tồn tại ở mọi nền văn hóa, với một số khác biệt:
+ Endogamy: Hôn nhân giữa các thành viên cùng thể loại, giai cấp hoặc nhóm
+ Exogamy: Hôn nhân giữa các thành viên thuộc các thể loại, giai cấp hoặc nhóm khác nhau
+ Chế Độ Một Vợ Một Chồng: Hôn nhân giữa một nam và một nữ
+ Chế Độ Đa Thê: Hôn nhân giữa một nam và nhiều nữ
Ở một số nền văn hóa, sau khi kết hôn, một cặp vợ chồng sống trong gia đình của người vợ – một tập tục được gọi là chế độ mẫu hệ . Khi các cặp vợ chồng sống trong gia đình của gia đình chồng, tập quán được gọi là phụ hệ . Nếu họ đi ra ngoài và tìm nơi ở riêng, họ thực hiện thói tân dân tộc .
– Mặc dù có nhiều nhu cầu trong việc nuôi dạy trẻ, nhưng hầu hết người lớn đều mô tả việc nuôi dạy trẻ là một nghĩa vụ quan trọng và chu toàn. Tuy nhiên, số lượng trẻ em trong các hộ gia đình của các nước công nghiệp phát triển đã giảm dần trong nhiều thế hệ. Áp lực kinh tế khiến các gia đình trung bình ở Mỹ chỉ có một hoặc hai con. Vì cả cha và mẹ đều phải thường xuyên làm việc bên ngoài để hỗ trợ gia đình, cha mẹ và con cái ngày càng ít dành thời gian cho nhau.