Đền Đông Cuông là một trong hai ngôi đền lớn ở thượng nguồn sông Hồng thuộc địa phận tỉnh Yên Bái. Dưới đây là bài viết tham khảo về Cô Bé Đông Cuông là ai? Đền thờ Cô Bé Đông Cuông ở đâu?
Mục lục bài viết
1. Cô Bé Đông Cuông là ai?
Cô Bé Đông Cuông là một trong ba vị thánh Cô đi theo hầu Thánh Mẫu Đông Cuông thuộc hàng Tứ Phủ nằm trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc ta. Cô bé Đuông Cuông chính là hóa thân của Cô Bé Thượng Ngàn.
2. Đền thờ Cô Bé Đông Cuông ở đâu?
Đền Đông Cuông là một trong hai ngôi đền lớn ở thượng nguồn sông Hồng thuộc địa phận xã Đông Cuông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Ngày 2/3/2009, đền Đông Cuông đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Đền thờ Cô Bé Đông Cuông và Mẫu Đông Cuông. Ngoài ra còn phối thờ hai vị Cô Đôi Thượng Ngàn và Cô Chín Thượng Ngàn.
Đền Đông Cuông Mẫu còn được người dân địa phương gọi với các tên gọi khác như Đền Đông, Đền Đông Cuông, Chùa Nhị Thượng Ngàn, Động Quang Linh. Ngôi chùa có vị trí phong thủy rất đẹp khi được xây dựng ở nơi phong cảnh hữu tình, sông núi, âm dương hòa hợp. Nơi đây và đền Suối Tiên là hai ngôi đền lớn nổi tiếng linh thiêng lâu đời của Yên Bái. Chính điện Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn tiêu biểu cho tục thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt, ngoài ra còn có Chư Đệ Nhị và các vị thần hộ mệnh của đất nước.
Tương truyền, xã Đông Cuông xưa là Mường Kha tồn tại lâu đời do các dòng họ Hạ, Hoàng – Tày Khao lập nên; Ngoài ra, họ Hạ còn dựng đình để thờ Thần sông, Thần núi, Thần đất, Thành hoàng làng.
Hệ thống đình Mường Kha bao gồm ngôi đình chính (sau gọi là đình Đông Cuông) và các ngôi đình khác.
Dòng họ Hà cho biết, thủy tổ của họ là Hà Văn Thiện, người từng lãnh đạo nhân dân địa phương đánh quân Nguyên dưới thời nhà Trần và hy sinh, nhân dân lập miếu thờ ông ở Ghềnh Ngãi (thuộc xã Tân Hợp, Văn Yên).
Từ khi được triều đình sắc phong, đình được cơi nới rộng ra và từ từ đổi thành miếu. Đến đời Nguyễn, Miếu được nâng cấp thành chùa. Trong “Đại Nam Nhất Thống Chí” được phong là “Thần Vệ Quốc Miếu” theo sự phong tặng. Cho đến nay, ngôi chùa vẫn còn kiểu nhà sàn bằng gỗ, chân thấp. Sau sự kiện năm 1914, nhân dân Đông Cuông góp tiền thuê thợ đúc từ Hà Đông, Nam Định về Đông Cuông đúc tượng vua Mẫu và tượng Kinh Mẫu.
Năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra. Ngôi chùa bị triệt hạ để giải tỏa mục tiêu. đồ thờ cúng được cất giữ cẩn thận. Năm 1980, hội người cao tuổi Bến Đền dựng lại ngôi chùa bằng tranh tre nứa lá.
Thể theo ý dân, ngày 4/1/1995 , UBND tỉnh Yên Bái đã ra quyết định cho phép nhân dân xã Đông Cuông, huyện Văn Yên được xây dựng lại đền Đông Cuông trên nền cũ để phục vụ việc thờ tự. Tổng diện tích của ngôi chùa là 17.600 m2 tạo nên một khuôn viên lý tưởng. Mặt trước của đền là sông Hồng và Ghềnh Ngải, phía sau là cánh đồng xen đồi, bên phải là khe Ao Sen và bên trái là đường dẫn từ đường sắt Yên Bái – Lào Cai chạy vào trong đền. Đền quay mặt ra sông, chếch Tây Nam nhìn thẳng vào miếu Ghềnh Ngãi, tách biệt với đền giao cho xã Tân Hợp quản lý.
Ngoài ngày mồng một và ngày rằm của các tháng, vào mọi thời điểm, đền Đông Cuông có 2 lễ hội chính: Ngày Tân Mão tháng Giêng (âm lịch) giết trâu trắng; tháng 9 (âm lịch) để diệt hắc lào. Trong lễ hội có nhiều hoạt động như Lễ rước kiệu; Nem nón, đấu vật, hát chèo…
Trải qua thăng trầm của lịch sử, đền Đông Cuông đã phải chịu sự tàn phá nặng nề của thiên nhiên và chiến tranh. Sau nhiều năm tu bổ, sửa chữa, đền Đông Cuông toạ lạc trên nền cổ kính khang trang. Kiến trúc đền Đông Cuông mang dáng dấp kiến trúc của đền thời Lý Trần với mái cong và hai con rồng chầu mặt trời. Cột gỗ tứ thiết rồng cuốn mạ vàng uy nghiêm. Ở các đầu cân đối, đầu bẩy, xà ngang, nách, câu đối… đều được chạm khắc các chi tiết hình thú, hoa lá gần gũi, quý phái. Những bức chạm khắc tinh xảo đạt trình độ cao cả về kỹ thuật và mỹ thuật phục chế. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật thuộc văn hóa Sơn Vi (hậu kỳ đá mới) tại khu vực đền Đông Cuông.
Khuôn viên chùa được mở rộng, những bóng cây che mát tươi tốt, điểm xuyết những vạt rừng đào, những rừng mận đang mùa nở hoa. Chùa quay về hướng Nam, địa thế tựa núi sông với cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình. Những con dốc của con đường tiếp cận chạy từ hướng đông sang những khúc quanh co uốn lượn mềm mại như dải lụa chạy ngang qua cảnh lưng núi càng làm tăng thêm sự chú tâm, tĩnh lặng.
3. Lễ hội và tín ngưỡng đền Đông Cuông Mẫu:
Do cấu trúc khuôn viên chùa bao gồm cả điện thờ và động nên trải qua quá trình lịch sử lâu dài, nơi đây vẫn giữ được bản sắc dân tộc đặc trưng và phong tục tập quán truyền thống của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Du khách đổ về đây vào mỗi dịp lễ lớn trong năm. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, đền Đông Cuông là cái nôi khởi nguồn và tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Mẫu trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Theo phong tục địa phương, hàng năm từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch và dịp cuối năm, các trấn thờ Mẫu từ khắp nơi trong nước lại tụ hội về đây để hành lễ Mẫu theo tục “Bắc ghế hầu Thánh”.
Nghi thức tiêu biểu trong tín ngưỡng thờ Mẫu:
Do nét độc đáo của hoạt động tín ngưỡng này, đền Đông Cuông Mẫu đã trở thành điểm du lịch tâm linh nổi tiếng, thu hút đông đảo du khách thập phương. Hàng năm, ngoài các thánh điện thờ Mẫu, có hàng trăm nghìn lượt du khách thập phương về đây dâng hương Mẫu, đồng thời viếng đền, tìm hiểu thêm về phong tục tập quán, tín ngưỡng của người dân nơi đây. Trong ngày lễ, các thanh đồng, làng xóm, khách thập phương thường đến chiêm bái, hầu thánh và tập áo thánh. Vì vậy, lễ hội là dịp để các hội, đồng ca, cung nhân, nghệ nhân chầu văn trong cả nước tề tựu về đền Đông Cuông để dâng hương, dự hầu đồng và các hoạt động khác trong khuôn khổ. Lễ hội nhằm phát huy giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu được UNESCO vinh danh.
Lễ hội được tổ chức với quy mô lớn, thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách. Ngoài ra còn có các hoạt động vui chơi giải trí truyền thống như: Hội thi tay nghề làm cốm, các trò chơi dân gian (Tung tiên, ném vịt, bịt mắt bắt vịt), thi đấu thể thao (Kéo co, bóng chuyền da nam)
4. Săm lễ đền Đông Cuông Mẫu:
Khi đến với đền Đông Cuông Mẫu, để tỏ lòng thành, nhiều du khách muốn sắp lễ để dâng cúng. Dưới đây là những nghi lễ cơ bản, phù hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu:
Đối với lễ chay, bạn cần chuẩn bị đầy đủ hoa, trà, trái cây, thức ăn,… để cúng ở bàn thờ Phật, Bồ Tát, Thánh Mẫu.
Nếu muốn cúng lễ mặn, bạn chỉ có thể chọn mâm lễ chay có hình gà, lợn, chân giò, chả giò… tượng trưng bởi theo tín ngưỡng nơi đây, khi cúng chay sẽ thể hiện lòng thành nhiều hơn.
5. Bản văn Cô Bé Đông Cuông:
Nương xanh ngắt núi đồi hùng vĩ
Đền Đông Cuông tú khí chung linh
Sông Thao thác đổ trướng hình
Đông Cuông cổ tích hữu tình danh lam
Tiên Cô Bé trên ngàn lừng lẫy
Đất Đông Cuông đã dậy thần oai
Trăng in mặt nước ghềnh ngai
Chênh vênh núi đá suối đồi bao la
Tiên Cô Bé vào ra hầu cận
Việc trong ngoài cần mẫn sớm trưa
Mẫu ban coi sóc các toà
Nhờ tay Cô Bé thông già thêm xanh
Giữa giờ tý hiện hình bẻ lái
Vượt lên ghềnh thác cái thác con
Thác Chèm bắt nhịp hò khoan
Phố Lu Trái Hút lại sang Bảo Hà
Nón tu lờ lẵng hoa đủng đỉnh
Đàn ngũ âm tang tính tình tang
Đêm thanh mắc võng giữa ngàn
Bạn tiên hội họp khúc đàn giao ca
Vòng bạch ngọc tay ngà uốn khúc
Quạt thanh phong áo lục xinh ghê
Đầy ngàn hoa quả xum xuê
Mão đầu hái quả tiến về Đông Cuông
Ơn Cô Bé bản mường thịnh thái
Đền Đông Cuông đức đại tối linh
Nhấp nhô cá lượn trước ghềnh
Giếng trong lầu mát xinh xinh khác thường
Vượn ru con trên ngàn rầu rĩ
Suối gảy đàn văng vẳng êm tai
Quy thần phục trước ghềnh ngai
Lũ chim bạch hạc bày đôi đèn lồng
Giục canh tác gà rừng báo thức
Gọi hè về rạo rực tiếng ve
Mưa ngâu đóm lửa lập loè
Tiếng kêu gõ mõ tiến về cô thôn
Thuyền xuôi ngược giương buồm bẻ lái
Đội ngư phường sớm tối buông câu
Trải bao nắng nỏ mưa dầu
Hoa đào đua nở về chầu chúa tiên
Lệnh tiên nữ ban truyền các tướng
Cưỡi trên mình bạch tượng ra quân
Lệnh truyền các chúng sơn thần
Sơn trang tám tướng hộ dân trừ tà
Nghe hiệu lệnh kèn loa rạo rực
Nữ yêu tinh khiếp phục thần oai
Ơn trên giáng phúc trừ tai
Dân nhờ phúc ấy núi đồi nở hoa.