Đền Quan Lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm nằm trong quần thể di tích văn hóa lịch sử Đền Đồng Bằng là địa điểm nổi tiếng. Dưới đây là bài viết về Quan Lớn Đệ Bát là ai? Quan Lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm
Mục lục bài viết
1. Quan Lớn Đệ Bát là ai?
Quan Lớn Đệ Bát là vị quan lớn xếp thứ Tám trong hàng ngũ Lục Phủ Tôn Quan đứng sau vị dQuan Lớn Điều Thất và đứng trước vị Quan Lớn Đệ Lục, trong hệ thống mười dinh quan lớn thì ngài là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình với vai trò giúp Vua Cha Bát Hải Động Đình huấn luyện binh mã thủy lục, giành được những thắng lợi trong chiến tranh chống giặc xâm lược trên tám vùng cửa biển nước Nam vào triều đại Hùng Duệ Vương thứ 18.
Về truyền thuyết hạ thế của ngài, hiện chưa có câu chuyện, tài liệu chính thống nào chắc chắn ngài giáng trần dưới thân phận nào. Tuy nhiên, có một giả thiết, ghi chép cho rằng Quan Lớn Đệ Bát giáng trần và trở thành Thống Chế Điều Bát vào thời kỳ thế kỷ 18.
2. Sự tích về Quan Lớn Đệ Bát:
Theo đó Quan Lớn Đệ Bát là Nguyên soái Diệu Bạt vào thế kỷ 18. Nguyên soái Diêu Bạt Nguyễn Văn Tồn (1763-1820) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông có công lớn giúp Thoại Ngọc Hầu, giúp cho quân dân đào kênh Vĩnh Tế (Châu Đốc, An Giang) và giúp đỡ người dân nhiều vùng Vĩnh Long, Trà Vinh.
Ông vốn là người gốc Khmer, tên thật là Thạch Duồng hay Thạch Duông, sinh năm Quý Mùi (1763) tại làng Nguyệt Lãng, Bình Phú, Càng Long, Trà Vinh dưới triều đại chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.
Thời trẻ, ông gia nhập vào hàng dịch đình nô, và hết lòng trung thành tận tụy nên được cho chuyển làm Cai đội, từ đó ông lập được nhiều công lớn, sau đó được Chúa Nguyễn Ánh ban cho ông tứ danh gọi là Nguyễn Văn Tồn.
Năm 1787, ông đi theo chúa Nguyễn Ánh chạy sang cùng Vọng Các (Bangkok) để tránh đoàn quân Tây Sơn.
Năm sau, ông quay về nước theo ông Lê Văn Quân để đánh quân Tây Sơn ở vùng bảo Ba Lai. Khi chúa Nguyễn Ánh trở về nước, ông được giao việc về Trà Vinh, Mân Thít để đi chiêu mộ dân binh (bao gồm toàn người dân Khmer), được giao cai quản làm Nội thuộc Cai đội thống quản, đóng quân tại Cầu Kè, Trà Ôn, và tiến hành khai khẩn mở rộng diện tích đất hoang để trồng trọt. Ông đi theo Lê Văn Quân và Võ Tánh nhiều lần lập được chiến công vang dội trong việc đánh dẹp quân của Thái bảo Tây Sơn Phạm Văn Tham.
Năm 1801, ông được lệnh Vua theo Võ Tánh trấn giữ thành Bình Định, bị đoàn quân Tây Sơn bắt, nhưng thoát được và tìm cách trốn về Nam, tiếp tục việc theo phò chúa Nguyễn. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long (năm 1802), ông được ban chức làm Cai cơ, tức là Chưởng quản thủy quân doanh, đưa đoàn quân bản bộ về quê, đóng ở đồn Uy Viễn (Trà Ôn) thuộc đạo Trấn Giang (nay là Cần Thơ) kiêm cai quản hai phủ là Trà Vinh và Mân Thít thuộc địa bàn dinh Vĩnh Trấn (Long Hồ dinh), tiếp tục mở đất, giữ gìn an ninh ở phía Tây Nam.
Năm 1810, ông cùng ông Thoại Ngọc Hầu dẫn binh sang Xiêm ở thành Lavek (Cao Miên). Sau khi thắng trận, ông ở lại Nam Vang thực hiện việc giúp vua Cao Miên cai trị đất nước, an dân.
Đến năm 1811 Gia Long thứ mười, ông được triệu về kinh thành nhận thưởng và thăng hàm làm Thống chế, tước Dung Ngọc hầu.
Năm 1813, về nước cai quản vùng Trà Ôn, Trà Vinh, tiếp tục chiêu mộ người dân vùng này để đi khai khẩn đất hoang, thành lập xóm làng.
Năm 1819, ông được bổ nhiệm vào chức vị Điều bát nhung vụ, dẫn đầu một đoàn dân binh người Khmer khoảng 500 người, đến vùng Châu Đốc cùng với Thoại Ngọc Hầu vơi chức danh Tuyên Trung Hầu lo việc đào kinh Vĩnh Tế.
Mồng 4 tháng Giêng niên Canh Thìn ( tức ngày 27 tháng 2 năm 1820), do lao lực quá sức ông mất tại Trà Ôn (Vĩnh Long).
Đến năm 1928, vua Minh Mạng nhớ về công lao của công và sắc phong ông là “Trung đẳng thần, hàm ân Trung Dũng Thiên Trực, tước Dung Ngọc hầu”
Vợ của ông cũng được nhà vua ban mỹ tự là: “Hiền Thục Chi Thần Thống Chế Đại Quan”
3. Quan Lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm:
Quan Lớn Đệ Bát ngự đồng hạ trần sau giá Quan Điều Thất Đào Tiên. Khi Ngự đồng thì Ngài ngự trong áo vàng và chân đi cờ lệnh.
Đền Quan Lớn Đệ Bát Đồng Bằng Sông Diêm nằm trong quần thể di tích văn hóa lịch sử Đền Đồng Bằng có tên gọi là Đền Bến, Đền Trình cách ngôi đền Vua Cha Bát Hải Động Đình khoảng 500 mét về hướng đông nam Cầu Vật.
Tương truyền rằng Đền Trình chính là nơi Vua Cha Bát Hải Động Đình tập trung luyện binh mã thủy lục, dưới thủy và cả trên bộ.
Đền Quan Lớn Đệ Bát xây dựng theo kiểu tiền chữ nhị, hậu thì chữ đinh, cạnh có chùa Trình. Năm 1951 Đền Quan Đệ Bát đã bị phá hỏng do giặc xâm chiếm nước ta
Năm 1996, địa phương cùng người dân đã trùng tu đền Ngài lại.
4. Văn khấn Quan Lớn Đệ Bát:
Khấn Nam mô a di đà Phật
Khấn Nam mô a di đà Phật
Khấn Nam mô a di đà Phật
Sau đó vái ba lần
Con lậy chín phương trời, con lạy mười phương đất, con lạy chư phật mười phương.
Con lậy toàn thể chư phật, chư tiên, chư thánh.
Con lậy Quan Lớn Đệ Bát tối linh.
Đệ tử con là: (bạn nêu tên tuổi đầy đủ của mình)
Ngụ tại: ( địa chỉ sinh sống của bạn).
Hôm nay là ngày ( ngày mà bạn đi đến đền cầu, ngày âm và ngày dương). Chúng con về đây có chút hương hoa, oải quả, lễ mặn hoặc chay ( có lễ gì kêu lễ đó, kêu sai là phải tội) xin dâng lên các chư tiên, chư thánh để cảm tạ ơn đức của các ngài đã phù hộ, độ trì cho chúng con suốt thời gian qua. Thời gian vừa qua, được sự lưu tâm, độ trì của các ngài mà công việc hanh thông, vẹn tròn. Đệ tử chúng con xin cảm tạ các .
Hôm nay, chúng con đến đây với tất cả lòng thành kinh, xin các ngài phù hộ, độ trì cho chúng con các việc sau: ( xin việc gì thì nói cụ thể).
(Cuối cùng), thay mặt gia đình chúng con, con xin đa tạ Quan Lớn Đệ Bát tối linh và toàn thể các chư tiên, chư thánh.
Khấn Nam mô a di đà Phật
Khấn Nam mô a di đà Phật
Khấn Nam mô a di đà Phật
Sau đó vái ba lần
5. Bản văn Quan Lớn Đệ Bát:
Chốn Long Đài mây tuôn năm vẻ
Cung Quảng Hàn bóng xế thềm loan
Trước làn gió thoảng đưa nhang
Ngai vàng lồ lộ long nhan lầu lầu
Đệ tử con khấu đầu tự sự
Tâu Động Đình hoàng tử long nhan
Khâm thừa thượng đế gia ban
Thỉnh mời Đệ Bát Tôn Quan ngự đồng
Khi lên chầu Ngọc Hoàng thượng đế
Lúc ra về Thủy Tế Long Cung
Có phen biến hóa thần thông
Lốt vàng chìm nổi Bể Đông dư nghìn
Lên Thượng Thiên cưỡi mây ngăn gió
Ngọn cờ đào thẳng trỏ đường tiên
Có phen chơi cảnh lê viên
Làu làu thu nguyệt soi bên giang hà
Khi thong thả bàn trà điểm nước
Họp bạn tiên tửu thuốc thi ngâm
Dập dìu hầu hạ dư trăm
Kẻ dâng khăn ngự người dâng xuyến ngà
Khi trắc giáng sa hà biến hóa
Ngự vân long sa mã trì khu
Vân cù cưỡi hạc ngao du
Biển Hồ đôi lúc non vu đôi lần
Bao thế giới mặc lòng thong thả
Cảnh giang hồ chi sá trần ai
Phiêu diêu tử phủ đan đài
Ba ngàn, chín vạn cõi ngoài tràng sinh
Lên thiên đình khâm thừa ngọc ấn
Chuyển uy hùng lĩnh ấn binh nhung
Tả ban văn tướng anh hùng
Hữu ban vũ tướng hội đồng dưới trên
Phó kim liên hiện hình biến tướng
Giá ngự đồng ngọc trước long nhan
Triều thần văn vũ bá quan
Thủy binh cơ đội lưỡng ban về chầu
Quân sắp hầu lưng đeo kiếm sắc
Tùy lệnh hành cờ phất trống rung
Có phen nổi trận đùng đùng
Ba đào dợn sóng mênh mông hải hà
Khi hiện ra tam đầu cửu vĩ
Dưới Thủy Tề nước rẽ làm đôi
Tự nhiên nổi trận phong lôi
Thấy trên mặt nước hiện đôi bạch xà
Lệnh truyền ra bất tuân thời khắc
Thét tiếng vang chớp dật mưa sa
Ngự thôi về chốn Diêm La
Vào chầu Bát Hải Vua Cha Động Đình
Trước long đình khoan thai lễ nhạc
Mão kim cương đai bạc xênh xang
Vào chầu Vương Phụ nghiêm trang
Vũ ban nhất phẩm văn ban tin dùng
Lệnh Cửu Trùng quyền trao chức sự
Giáng ngự về cứu tử độ sinh
Đêm ngày chầu chực thiên đình
Sổ son sổ mực đã tinh làu làu
Phút nam lâu lại chơi bắc điện
Phép thần thông biến hiện vô biên
Thảnh thơi kim mã ngọc đường
Nguy nguy tái thượng dương dương tại đền
Giáng ngự lên cứu sinh độ thế
Nương oai trời sửa trị quân sinh
Muôn năm thanh thả miếu đình
Có quan Đệ Bát Sông Diêm nhiệm màu
Tiếng oai linh dạy vang từ đấy
Ai kẻ còn dám lấy làm kinh
Cứu cho trần thế sinh linh
Hàng ma phục quái độ sinh nhiệm màu
Giáng bản đàn trừ tà trị bệnh
Phép anh linh hiển hách cứu nhân
Ra uy chí chính chí nhân
Soi gương khúc trực cầm cân công bình
Tấm lòng thành tùy tâm sở nguyện
Giáng phúc lành ứng hiện hà sa
Một nguyện phúc lộc đề đa
Trừ tai hạn ách tống ra hải ngoài
Thứ hai nguyện đinh tài hậu phát
Độ đồng gia kinh ngạc tranh vanh
Ba nguyện phú quý khang ninh
Cứu dân hộ quốc muôn đình thọ xuân.