Lễ hội đền chùa là một trong những nét đẹp truyền thống của văn hoá Việt Nam. Trong số đó nổi bật phải kể đến lễ hội đền Trần. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn trả lời những câu hỏi: Đền Trần ở đâu? Đền Trần thờ ai? Tìm hiểu về lễ hội đền Trần?
Mục lục bài viết
1. Đền Trần ở đâu?
Trần Miếu hay còn được gọi là Đền Trần được xem là một trong những quần thể đền thờ nổi tiếng ở phía Bắc. Đền tọa lạc trên đường Trần Thừa, Lộc Vượng, Nam Định bên cạnh là quốc lộ 10.
2. Đền Trần thờ ai?
Ngay nay nơi đây đã được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Đền Trần là nơi thờ 14 vị vua, quan nhà Trần và là nơi dâng ân cho nhà Trần. Đền Trần được xây dựng vào năm 1695 trên nền Thái miếu cũ của nhà Trần nơi bị quân nhà Minh phá hủy vào thế kỷ XV.
3. Kiến trúc Đền Trần:
Đền Trần là một quần thể đền thờ với ba công trình đền thờ, bao gồm: Đền Thượng, đền Hạ và đền Trùng Hoa.
3.1. Đền Thượng:
Đền Thượng hay còn có tên gọi khác là đền Thiên Trường. Đền Thượng được xây dựng trên nền đền Thái miếu và điện Trùng Quang của nhà Trần, trước đó là đền thờ họ Trần. Điện Trùng Quang là nơi ở và làm việc của các Thái thượng hoàng nhà Trần. Đền Trần hiện nay được nhân dân địa phương dựng năm Chính Hòa thứ 15 (tức 1695) bằng gỗ. Năm 1773, 1854, 1895, 1907-1908, điện Trùng Quang được mở rộng và trùng tu nhiều lần.
Đền Thượng hiện nay gồm tiền đường, trung đường, chánh điện, thiêu hương, 2 dãy tả vu và hữu vu, 2 dãy tả mạc và hữu tẩu, 2 dãy đông và tây giải vũ. Tất cả có 9 khu lĩnh vực, 31 phòng nhỏ. Khung điện bằng gỗ lim, nền được lát gạch và mái lợp bằng ngói.
3.2. Đền Hạ:
Cũng như đền Thường, đền Hạ còn mang một tên gọi khác là đền Cố Trạch. Đền Hạ nằm ở phía đông đền Thượng khi nhìn từ sân vào. Đền Hạ được xây dựng vào năm 1894, theo tấm bia “Trùng kiến Hưng Đạo thân vương cố trạch bi ký”, người ta tìm thấy ở phía đông đền Thượng khi Đền Thượng được tu sửa vào năm Tự Đức thứ 21 (1868) trị vì. Trong đền có một mảnh bia vỡ c có khắc chữ Hưng Đạo Cố Trạch (Nhà cũ của Hưng Đạo). Vì vậy, khi ngôi chùa này được xây dựng vào năm 1894 và khánh thành vào năm 1895, ngôi đền được gọi là Cố Trạch Tự hay đền Hạ là tên gọi thông thường.
Đền Hạ có bài vị của Trần Hưng Đạo, gia đình của ông và gia đình của tướng quân. Sân trước đền Hạ là nơi đặt bài vị của ba vị tướng họ Trần Hưng Đạo, Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa.
3.3. Đền Trùng Hoa:
Nằm trong khu quần thể đền Trần, đây là ngôi đền mới nhất so với hai ngôi đền còn lại.
Đền Trung Hoa là một ngôi đền mới, được chính quyền tỉnh Nam định cùng sự tài trợ kinh phí từ chính phủ đã được xây dựng vào năm 2000. Nền của ngôi đền tọa lạc trên nền cũ cung Trùng Hoa xưa, đây là nơi các vị hoàng đế nhà Trần đến bàn chuyện chính sự với các Thái thượng hoàng. Bước vào đền Trùng Hoa, du khách sẽ được chiêm ngưỡng 14 pho tượng bằng đồng tượng trưng cho 14 vị vua nhà Trần được đặt tại khu vực trung tâm đền và tòa chính tẩm. Toà còn lại – toà thiêu hương được dùng để đặt ngai và bài vị của những viên quan có công với triều Trần.
4. Lễ hội Đền Trần:
Đây là nơi nổi tiếng với lễ khai Ấn và hội đền tháng Tám, được đông đảo nhân dân và du khách từ khắp nơi đến để tỏ lòng thành kính công đức của các Vua Trần và cầu mong những phước lành. Mỗi năm, Đền Trần tổ chức hai lễ hội lớn là Khai Ấn đầu năm mới và Hội đền tháng 8 được nhân dân và du khách đông đảo hưởng ứng, về dự, tỏ lòng thành kính với các vua Trần cũng như những vị có công được thờ trong đền.
Lễ khai ấn đền Trần (Nam Định) sẽ được tổ chức vào ngày 14 đến 15 tháng giêng. Vào chiều ngày 14 là thời điểm bắt đầu làm lễ đưa hòm ấn đi từ nội điện đền Cố Trạch đến đền Thượng… sau đó du khách kéo về đền cúng, cầu mong năm mới an khang thịnh vượng, vạn sự như ý. Sáng sớm ngày 15 sẽ có lễ phát ấn cho người dân.
Lễ hội tháng tám Đền Trần tại Nam Định sẽ được tổ chức trong 5 ngày từ 15 đến 20 vào tháng Tám. Ngày Lễ bắt đầu với các đoàn rước từ đình chung và các đền xung quanh về dâng hương tại đền Thượng. Phần hội có các hoạt động văn hóa dân gian hấp dẫn như biểu diễn võ thuật, đấu vật, đánh cờ, cầu kiều, hát văn, múa Bài Bông, múa lân và nhiều chương trình văn nghệ hấp dẫn khác.
Lễ khai ấn là tục lệ có từ thế kỷ 13 , đúng vào năm 1239, nhà Trần làm lễ tế tổ. Vua Trần mở tiệc chiêu đãi tại điện Thiên Trường và phong các quan đại thần. Trong những năm đánh giặc Nguyên-Mông tiếp theo, lễ phong ấn bị đình chỉ cho đến khi Hoàng đế Trần Thánh Tông mở lại vào năm 1262.
Trải qua nhiều thế kỷ, ấn cũ đã thất lạc. Năm 1822, vua Minh Mạng đi Ninh Bình dừng chân tại đây và cho khắc lại. Ấn cũ được khắc “Trần triều chi bảo” và ấn mới được vua Minh Mạng cho khắc “Trần triều điển cố” để nhắc nhớ tích cũ. Ở phía dưới có câu “Tích phúc vô cương”. Từ đó, khai mạc lễ khai ấn được diễn ra vào giờ Tý vào ngày Rằm tháng Giêng và trở thành một tập tục văn hóa nhân văn của nhà vua để tế trời đất và tổ tiên, cảm ơn thiên nhiên, sông nước, tổ tiên chúng ta. Và cũng là “tín hiệu nhắc nhở” kết thúc kỳ nghỉ Tết và trở lại cuộc sống thường nhật.
Đền Cố Trạch có rất đông các bô lão tụ tập để cúng Thánh Trần và sau đó là lễ khai ấn đầu năm.
Ấn được đặt trên bàn thờ một cách trang trọng với hai ấn. Trên mặt ấn nhỏ khắc hai chữ “Trần Miếu”, ấm lớn có chữ “Trần Triều Tự Điển, Tứ phúc vô cương”. Đúng giờ (12 giờ) buổi lễ bắt đầu, bô lão lớn tuổi nhất đứng trước dân làng để hành lễ. Người khiêng hộp ấn sau đó xem chiêng trống, đèn nến đánh, tiến về đền Thiên Trường để tiếp tục hành lễ, cuối cùng cầm ấn son đỏ trên tờ giấy vàng để phát cho những người dự lễ. Lễ được chia và treo trong nhà để cầu may mắn, tài lộc và tránh mọi tai ương trong năm.
Lễ khai ấn đền Cố Trạch, Thiên Trường hàng năm vẫn được dân làng Tức Mặc tổ chức, hình thức nghi lễ đơn giản hơn trước.
Đền Cố Trạch, Thiên Trường tổ chức lễ hội lớn khai ấn vào mỗi năm, mở từ ngày 15 đến 20 tháng 8 âm lịch và nét đẹp truyền thống ấy vẫn được lưu giữ cho đến tận ngày nay. Cũng như các lễ hội khác, nó bao gồm các nghi lễ và hoạt động văn hóa dân gian của xưa và nay. Một buổi lễ diễn ra ở đây còn có sự góp mặt với những đám rước từ các ngôi đền khác, đến dâng hương và lễ vật tại đền Thiên Trường. Đoàn rước gồm: cờ, kiệu, long đình, trống chầu và đông đảo bô lão, nhân dân các làng xung quanh. Khi đám rước đến đền thờ, một buổi lễ được tổ chức. Nếu như trước đây chỉ tổ chức phần lễ chứ không tổ chức phần hội thì những năm gần đây, do nhận thức được tầm quan trọng của di tích, cơ quan văn hóa các cấp chính quyền địa phương, nên các nghi lễ, cùng các hoạt động văn hóa đã được tổ chức trong lễ hội lớn Đền Trần, Lễ hội Trần Hưng Đạo.
Lễ dâng hương với nghi thức là những trinh nữ bưng những mâm hoa làm lễ ở sân ngoài xong sau đó đi thẳng vào đền dâng trước bàn thờ theo tiếng nhạc. Những mâm hoa ấy được dâng trước nơi thờ các vị vua Trần. Những người lớn tuổi như mô tả lại các nghi lễ của một triều đình phong kiến xưa, sau lễ tế tại đền Thiên Trường là đến lễ ở đền Cố Trạch.
Khi kết thúc phần lễ sẽ là phần hội với nhiều hoạt động văn hóa phong phú, độc đáo như: liên hoan võ thuật tại sân đình Thiên Trường, đấu vật, múa rồng và nhảy, chọi gà, cổ chai, đánh đu, bài chòi… Đặc biệt là điệu múa Bông – điệu múa mừng chiến thắng của quân dân thời Trần. Lưu truyền lại rằng, thái sư Trần Quang Khải đã sáng tạo và truyền dạy múa hát trong cung đình. Về sau, dân làng Phương Bông (Mỹ Trung) là đội ca múa cung đình, đã luyện tập các điệu múa này và biểu diễn trong các lễ hội đền Trần. Hàng năm, ngoài lễ lớn vào ngày 8 tháng Giêng âm lịch, còn có các ngày giỗ khác, như giỗ Phụ Vương Mẫu và các con của lão tướng họ Trần.
Mọi nghi lễ của khu di tích đền Trần từ lâu đã lưu giữ những phong tục cổ truyền của nhân dân, tái hiện một phần giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, nội dung lịch sử hiện rõ, cổ vũ sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh bất khuất kẻ xâm lược từ bên ngoài, thể hiện truyền thống của mọi người Việt Nam đó là uống nước nhớ nguồn.