Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác chi tiết nhất:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
– Nghẹn ngào, cảm xúc dâng trào mạnh mẽ khi nghĩ đến giây phút rời Lăng Bác để trở về phương Nam.
Chữ “thương” chứa đựng bao cảm xúc yêu thương, trân trọng, ngậm ngùi, nhớ nhung.
Cảm giác nghẹn ngào, đầy hoài niệm của những người con Nam Bộ trước giờ phút chia xa.
– Mong ước chân thành, tha thiết của tác giả:
Muốn trở thành con chim, bông hoa, cây tre mãi mãi trung thành với Bác.
Điệp ngữ “muốn làm” thể hiện mong muốn chân thành, tha thiết của tác giả.
Mai về miền Nam lòng thành kính hướng về Lăng Bác.
->Ba dòng không chủ ngữ như thay lời hiệu triệu đồng bào Việt Nam tỏ lòng kính trọng vị lãnh tụ.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài phân tích khổ cuối Viếng lăng Bác ngắn gọn nhất:
Mong nhớ bao năm, nay mới có dịp được vào thăm lăng Bác, nhà thơ chất chứa biết bao tâm tư, tình cảm. Cuộc viếng thăm ngắn ngủi đã làm cho nhà thơ vô cùng xúc động và lưu luyến. Khổ thơ thứ tư thể hiện tâm trạng hoài niệm của nhà thơ, muốn được ở mãi bên lăng Bác.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Bài thơ “Viếng lăng Bác” như một lời tiễn biệt. Từ ngữ đơn giản nhưng lại thể hiện tình cảm sâu sắc. Từ “trào dâng” thể hiện tình cảm mãnh liệt, niềm mong mỏi, nỗi nhớ không muốn rời xa nơi Bác ở. Nhà thơ muốn ở trong hình ảnh của Bác, gợi lại bao kỉ niệm và lòng kính trọng. Đó cũng là tâm trạng của hàng triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau với tác giả. Gần bên bạn dù chỉ trong giây lát nhưng chúng tôi không bao giờ muốn rời xa bạn vì bạn thật ấm áp và vĩ đại.
Mong ước chân thành của
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Tác giả “muốn làm con chim hót” dâng lên khúc hát ru cho Bác Hồ ngủ. Đó là âm thanh của thiên nhiên, rất đẹp và trong lành; “muôn loài hoa” tỏa hương thơm cao quý nơi Bác yên nghỉ, góp sắc, góp hương cho muôn ngàn loài hoa khác trong vườn hoa Tổ quốc; “Muốn làm cây tre trung hiếu” bên lăng Bác, trở thành người chiến sĩ trung thành mãi mãi canh giấc ngủ của Bác.
Điệp ngữ “muốn làm” được lặp lại nhiều lần trực tiếp và gián tiếp thể hiện tình cảm lớn lao của nhà thơ đối với Bác Hồ kính yêu, vị cha già vĩ đại của dân tộc, thể hiện nỗi nhớ nhung da diết lời chúc chân thành của tác giả.
Hình ảnh cây tre mở đầu bài thơ rồi khéo léo khép lại bài thơ. Hình ảnh cây tre là biểu tượng cho tinh thần chiến đấu anh dũng, bất khuất, sức sống kiên cường, bền bỉ của dân tộc. “Muốn làm cây tre” là mong muốn được hóa thân thành một phần thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, cũng là lời hứa và quyết tâm của tác giả tiếp tục thực hiện Di chúc của Bác Hồ: xây dựng và bảo vệ đất nước bền vững trong thời kỳ mới.
3. Những bài phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác hay nhất:
3.1. Bài mẫu 1 – Bài phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác hay nhất:
Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc, luôn là niềm tự hào của hàng triệu người dân Việt Nam. Dù đã đi xa nhưng Bác vẫn sống mãi trong lòng mọi người, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho văn học. Viết về Bác Hồ, bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương nổi bật với tình cảm, sự kính trọng của nhà thơ đối với vị cha già dân tộc. Phân tích khổ thơ cuối bài thơ “Viếng Bác” ta sẽ thấy được tâm nguyện nhỏ bé của tác giả đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhà thơ Viễn Phương (1928 – 2005) tên thật là Phan Thanh Viễn, sinh ra và lớn lên tại An Giang. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ông hoạt động tích cực ở chiến trường Nam Bộ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông không chỉ là người lính mà còn là cây bút sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam. Năm 1952, khi miền Nam tổ chức giải tổng kết văn học nghệ thuật, bản hùng ca Chiến thắng vì hòa bình của nhà thơ đã đoạt giải nhì. Sau này, chi hội văn nghệ phía Nam được thành lập, Viễn Phương được bầu vào Ban chấp hành. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu của ông như: “Như mây xuân, “Anh hùng mìn gạt”, “Lòng mẹ”,… Sinh ra và lớn lên ở miền Tây sông nước thơ mộng, Viễn Phương cũng để lại những dấu ấn riêng – Phong cách và tâm hồn của nơi đây.Tác phẩm của ông tràn đầy cảm xúc nhưng không u uất.Thơ của ông tràn đầy cảm xúc,thì thầm,bâng khuâng,như một người bạn.Tác phẩm của ông tràn đầy cảm xúc,thì thầm với người đọc.Chính vì thế mỗi tác phẩm của ông đều được yêu mến và đánh giá cao bởi độc giả.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, khi đất nước vừa giành được thắng lợi vẻ vang trước đế quốc Mỹ. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, Lăng Bác được hoàn thành, ông vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra Hà Nội viếng lăng Bác. Tác phẩm được in trong tập thơ Như mây xuân, xuất bản năm 1978.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” là tình cảm không nguôi của Viễn Phương đối với vị cha già dân tộc. Đó là những cảm xúc mạnh mẽ khi đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng; trước đoàn người vào lăng viếng Bác; Khi vào lăng thấy di hài Bác. Và cuối cùng, khổ thơ cuối là những cảm xúc lắng đọng trước lúc ra đi. Đây cũng là khổ thơ thể hiện mong ước nhỏ nhoi của nhà thơ là được ở bên Bác, không muốn xa rời:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Trước hết, khổ thơ thể hiện niềm tiếc thương vô hạn của tác giả khi phải chia tay Bác:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Tiếng Việt rất phong phú. Từ “thương” có lẽ là một từ đặc biệt mà không một ngôn ngữ nào có thể cắt nghĩa hay giải thích được. Chỉ với một từ “thương” mà tình cảm của đồng bào miền Nam đối với Bác đã được thể hiện trọn vẹn. Đó chính là lòng kính yêu, sự kính trọng đối với cuộc đời cao cả, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho dân, cho nước, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là sự hy sinh quên mình của người cha già trầm lặng:
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son”
Đó cũng là nỗi xót xa, xót xa của tác giả nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Giờ đây, chúng con đã vĩnh viễn mất đi người cha già kính yêu. Nỗi đau ấy, sau được kìm nén trong hành trình về với Bác, giờ lại “ứa nước mắt” khi chia tay. Mọi đau buồn dồn nén, trào dâng. Và không chỉ người buồn, dường như đất trời cũng rung chuyển:
“Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”
(
Chỉ với một câu thơ 8 chữ nhưng tình cảm của nhà thơ Viễn Phương đã được bộc lộ hết sức chân thành. Là nỗi buồn vô hạn mà sau khi kìm nén lại rơi nước mắt lúc chia tay.
Không chỉ bày tỏ tình cảm của mình, tác giả Viễn Phương còn bày tỏ mong ước nhỏ nhoi của mình là được ở bên Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến, nỗi xúc động nghẹn ngào của nhà thơ khiến tác giả muốn hóa thân để được ở bên bạn mãi mãi. Ở đây, tác giả đã ba lần liên tiếp dùng từ “muốn làm”. Cùng với đó, hình ảnh chim muông, hoa lá, cây tre được lồng ghép và sử dụng có mục đích. Tất cả đã nói lên ước nguyện tha thiết của nhà thơ. Nó muốn Bác yên nghỉ, còn tôi muốn đền đáp công ơn trời biển. Tác giả không mong ước điều gì quá lớn lao, mà chỉ muốn được ở bên Bác hàng ngày, trở thành con chim, cành tre lặng lẽ, âm thầm. Điều này đã thể hiện sự hiểu biết của tác giả về Bác Hồ.
Tác giả muốn làm một “con chim” hót quanh lăng Bác. Tiếng chim ấy sẽ như lời yêu thương của những người Việt Nam luôn sát cánh, bầu bạn với bạn. Con chim ấy cũng chính là con chim của tự do, hòa bình chứng tỏ tuổi thơ của Bác luôn khao khát độc lập. Không ước mình là mặt trời, là một điều gì to lớn, mà chỉ là một chú chim không biết mệt mỏi, nhỏ bé nhưng mạnh mẽ và kiên cường.
Tác giả cũng mong muốn mình là một “bông hoa” luôn “nở mọi nơi”. Sinh thời, Bác rất yêu hoa. Và dường như hiểu được suy nghĩ này, nhà thơ Viễn Phương mong muốn được là hiện thân của điều thân thuộc và ý nghĩa ấy. Không làm bông hoa, nhành hoa mà chỉ ước mình là một “bông hoa” giữa rừng hoa tươi đẹp. Loài hoa đó thậm chí không có tên gọi, màu sắc, hương thơm cụ thể. Chỉ là loài hoa không tên, nhưng luôn thơm ngát, làm đẹp cho đời. Tác giả dường như muốn nhấn mạnh rằng con người Việt Nam không phân biệt dân tộc, giới tính, nghề nghiệp đều cao đẹp và đáng được trân trọng.
Ở đây, tác giả đã sử dụng cấu trúc câu đầu tiên cho bài thơ. Mở đầu là “hàng tre bát ngát”, kết thúc là “cây tre trung hiếu”. Như con chim và bông hoa, tác giả vẫn chỉ ước mình là “cây tre chung thủy ở đây” giữa hàng triệu cây tre khác. Nhân dân Việt Nam sẽ luôn sát cánh, đoàn kết, kiên cường trước mọi biến đổi. Đó cũng là tâm nguyện của Bác Hồ khi Người còn sống. Những mong ước nhỏ nhoi đó của tác giả Viễn Phương vừa chân thành vừa sâu sắc. Đó cũng là tình cảm, nguyện vọng của hàng triệu người dân miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trước khi rời Lăng Bác sau khi vào viếng Người.
Bằng ngôn ngữ giàu cảm xúc và những hình ảnh tiêu biểu, khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc mạnh mẽ. Đó là những tiếc nuối, xót xa và ước nguyện đau đáu của tác giả – cũng là ước nguyện của hàng triệu người dân Việt Nam với Bác Hồ. Có hàng nghìn bài thơ viết về Bác nhưng Viễn Phương với những vần thơ Bác dịu dàng vẫn giữ một vị trí không thể thay thế, làm đẹp thêm kho tàng văn học viết về Bác.
3.2. Bài mẫu 2 – Bài phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác hay nhất:
Khổ thơ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ khi người đã khuất. Nhà thơ lưu luyến muốn ở mãi bên lăng Bác. Nỗi nhớ nhung da diết bị kìm nén đến phút chia tay vỡ òa trong nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Tình yêu chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật tại lăng Bác:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Hình ảnh hàng tre được lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm trọn vẹn dòng cảm xúc. Cây tre mục tiêu đã hợp nhất với cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lòng kính yêu vô bờ bến, lòng thủy chung son sắc với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Người. Phép ám chỉ “muốn làm” và những hình ảnh thơ ẩn sau nó tạo nên nhịp thơ nhanh, tha thiết bộc lộ những cảm xúc, khát vọng mãnh liệt. Bài thơ như khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo nên sự gần gũi trong tình cảm và ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi đến viếng Bác, nhất là những người con miền Nam xa xăm trong không gian, cả những người chưa được vào lăng Bác nhưng vẫn một lòng thành kính với Người.
Bác Hồ dù đã đi xa nhưng Bác vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Viễn Phương nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Nguyện vọng cao cả được hóa thân để được ở bên Bác cũng là nguyện vọng cao cả nhất, chứa đựng tấm lòng đáng quý của nhân dân ta.