Sau khi thành lập nhà nước, người Việt cổ đã có những hoạt động sản xuất tạo nền tảng kinh tế - xã hội của một thiết chế nhà nước thô sơ mang màu sắc riêng khẳng định sự tồn tại của mình.
Mục lục bài viết
1. Những ngành nghề sản xuất chính của cư dân Văn Lang Âu Lạc:
– Nghề luyện đồng: Đây là ngành nghề của người Việt cổ đạt trình độ cao, tiêu biểu là trống đồng, thạp đồng, đồ trang sức bằng đồng,… Kỹ thuật luyện đồng bằng hợp kim đồng – thiếc, hàm lượng chỉ thay đổi theo nơi làm việc. Công cụ hoặc vật phẩm mà người thợ thủ công muốn làm. Đây là một sáng tạo bằng đồng tiêu biểu, thường là trống đồng Đông Sơn. Sự ra đời của chiếc cày đồng là công cụ tiên tiến nhất lúc bấy giờ, đánh dấu bước tiến trong nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước của cư dân Văn Lang – Âu Lạc. Đồ Đồng – Đông Sơn là tiêu biểu cho nhiều loại trống đồng, là đỉnh cao của kỹ thuật luyện kim và nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
– Chăn nuôi: Người Việt cổ từ vùng Địa Trung Hải đến khai phá các châu thổ sông lớn ở bắc bộ và trung bộ bắc bộ. Họ biết trồng dâu nuôi tằm, dệt vải dệt lụa. Ngoài ra, họ còn đánh bắt tôm cá, trồng rau và chăn nuôi gia súc, gia cầm.
– Nền văn minh lúa nước: Việt Nam thuộc khu vực Đông Nam Á nhiệt đới ẩm gió mùa, hệ động thực vật phong phú. Vì vậy, nước ta là một trong những trung tâm phát triển nông nghiệp hay còn gọi là nền văn hóa lúa nước. Nền văn minh lúa nước ra đời cách đây khoảng 10.000 năm ở Đông Nam Á, trong trường hợp nền văn minh lúa nước là sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa và kỹ thuật tưới tiêu đến trình độ cao đáp ứng nhu cầu của thế giới. Lịch sử văn minh lúa nước ở Việt Nam bắt đầu từ thời kỳ đồ đá mới, thuộc nền văn hóa mới Hòa Bình – Bắc Sơn. Lúa gạo trở thành lương thực chính và được gieo trồng rộng rãi trong cả nước, sự phân bố và địa lý của các vùng miền khác nhau đã tạo nên những loại gạo khác nhau. Chính sự khác biệt này đã tạo nên những hương vị khác nhau của gạo, và nền văn minh lúa nước ở Việt Nam đa dạng hơn. Gạo là nguồn lương thực chính của người dân Văn Lang – Âu Lạc, gạo nếp là loại gạo phổ biến. Họ biết dùng gạo nếp để làm bánh phồng, làm bánh chưng, bánh dày. Đối với canh tác nông nghiệp, họ có những công cụ tự chế phù hợp với sản xuất và tiêu hủy như cuốc, liềm, lựu đạn….
2. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang:
Căn cứ vào các di tích khảo cổ, các tài liệu thành văn (cổ sử Trung Quốc và nước ta) có thể sơ bộ phác thảo cơ cấu nhà nước thời Hùng Vương theo bộ máy hành chính 3 cấp, tương ứng với 3 cấp quan lại. Đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi vua Hùng được truyền từ cha sang con. Hùng Vương còn là vị minh quân chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Nằm
Dưới quyền Hùng Vương và được Hùng Vương giúp việc là Lạc Hầu, Lạc Tướng. Lạc tướng cũng trực tiếp điều hành công việc của các bộ. Nước Văn Lang có 15 đạo quân (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (nguyên trưởng) cũng cha truyền con nối, còn gọi là phụ đạo, phụ tử. Các thành phố (bấy giờ có tên ghi là kẻ, chạ, chiềng) trực thuộc bộ. Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính (cũng có nghĩa là già làng). Có lẽ, ngoài người phụ nữ chính, còn có một nhóm người thành lập một tổ chức có chức năng như một hiệp hội đô thị để tham gia vào việc điều hành chính quyền đô thị. Mỗi đô thị có một nơi gặp gỡ và một nhà trọ, thường là một quán rượu.
Căn cứ vào lời Mã Viện tâu với vua Hán về tình hình nước Âu Lạc trước khi nhà Hán sang đô hộ nước ta, có thể cho rằng Nhà nước Văn Lang lúc bấy giờ đã có pháp luật quản lý xã hội. Sách Hậu Hán thư viết “Việt luật” khác luật Hán hơn mười điều. Có lẽ “luật Việt” mà Mã Viện sử dụng là luật tục. Sử sách thường chép rằng dân nước ta lúc bấy giờ là người Lạc Việt, quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.
Đại Việt Sử ký toàn thư chép rằng: Đời Trang Vương nhà Chu (696-682 TCN), người nước ngoài ở Gia Ninh dùng phép thu phục các bộ tộc, tự xưng là Hùng Vương, đặt Vạn làm kinh đô. . Lang., hiệu là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505- 462 TCN) sai người sang dụ hàng, nhưng Hùng Vương không theo.
Căn cứ vào các tài liệu và kết quả nghiên cứu về thời kỳ các Vua Hùng hiện nay, có thể có cơ sở cho rằng nguồn gốc của nhà nước Văn Lang cổ đại là vào khoảng thế kỷ thứ VII-VI TCN (thời Đông Sơn).
Sự ra đời của nước Văn Lang còn ở giai đoạn sơ khai, sơ khai, khi sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc (ví dụ do ảnh hưởng mạnh mẽ của nhu cầu thủy lợi và ảnh hưởng mạnh mẽ của ngoại xâm đã khuyến khích sự ra đời sớm của nó) , nhưng nó đánh dấu một thời đại và mạnh mẽ. một bước trong lịch sử Việt Nam – mở đầu thời kỳ dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.
3. Sự ra đời của nhà nước Âu Lạc:
Có nhiều giả thuyết về việc An Dương Vương trở thành vua của nước Âu Lạc và kéo theo đó là sự ra đời của nước Âu Lạc. Theo một số sách lịch sử như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ngô Sĩ Liên), Việt Sử Tiêu Ký (Ngô Thời Sỹ), An Dương Vương tên là Thục Phán, nguyên là thủ lĩnh nước Thục (hiện nay chưa xác định được xứ Thục ở đâu). Năm 257 TCN, Thục Phán dẫn quân đánh Hùng Vương thứ mười tám. Hùng Vương tin mình có binh mạnh, tướng không lo phòng thủ, ngày đêm uống rượu, đàn nhạc ca hát. Quân Thục Phán bất ngờ tấn công, Hùng Vương chống cự không nổi, phải nhảy giếng tự vẫn. Tuy nhiên cũng có giả thuyết cho rằng Thục Phán là một thủ lĩnh Tây Âu sống ở phía Bắc nước Văn Lang. Năm 21
Trước Công nguyên Tần Thủy Hoàng (Hoàng đế Trung Hoa) sai tướng Đồ Thư sang đánh nước Bách Việt. Nhân dân Tây Âu, Lạc Việt chung sức chống quân Tần. Sau khi dẹp yên giặc ngoại xâm năm thứ 18, Hùng Vương nhường ngôi cho Thục Phán. Hoàn cảnh Thục Phán lên ngôi tuy không được xác định rõ ràng nhưng việc Thục Phán thống nhất đất nước với Văn Lang, lập ra nước Âu Lạc thì ai cũng công nhận. Khi An Dương Vương được ghi chép, vẫn còn rất nhiều huyền thoại và truyền thuyết. Tương truyền, thần Kim Quy đã giúp vua xây thành Cổ Loa và ban cho vua cây cung thần để giữ gìn của cải. Triệu Đà làm quan quận Nam Hải, nhiều lần đem binh đánh Âu Lạc nhưng đều thất bại vì Âu Lạc có thành Cổ Loa hiểm trở, có nỏ thần. Sau đó, Triệu Đà làm hòa và cầu thân con gái của An Dương Vương cho con trai là Trọng Thủy. Dương Vương bằng lòng. Trọng Thủy ở Âu Lạc ba năm để do thám và trộm nỏ. Vì vậy, khi quân Triệu Đà kéo đến, cây cung thần mất tác dụng. Quân Âu Lạc tan rã. Dương Vương cưỡi ngựa của Mị Châu chạy trốn. Đến núi Mộ Dạ (Nghệ An), thần Kim Quy hiện ra, lên án Mị Châu là giặc. Dương Vương liền chặt con gái rồi nhảy xuống vực tự tử. Nhà nước Âu Lạc chấm dứt, người Việt mất độc lập từ đó kéo dài hàng ngàn năm sau.
Trong thời kỳ dựng nước, chúng ta đã xây dựng nên một nền văn minh rực rỡ, đó là nền văn minh sông Hồng và Nhà nước sơ khai Văn Lang, Âu Lạc. Năm
Nhà nước Âu Lạc ra đời là minh chứng cho một nền văn hiến lâu đời.
Bằng lao động sáng tạo và đấu tranh bền bỉ, nhân dân Việt Nam đã xây dựng một đất nước phát triển với nhiều thành tựu kinh tế và văn hóa trên nền tảng là bản sắc dân tộc, dân tộc và văn hóa của mình.
Dựa vào nông nghiệp, trồng lúa nước và tình làng nghĩa xóm bền chặt, nhân dân Âu Lạc đã khai hoang mở cõi, chống giặc ngoại xâm và định hình lối sống, cách ứng xử.
4. Thành tựu tiêu biểu của nhà Văn Lang – Âu Lạc:
Trống đồng: Đây là một nét sáng tạo của người Việt cổ, bề mặt trống đồng mô phỏng cuộc sống nông nghiệp cần cù của người Việt cổ.
Thành Cổ Loa: Gồm ba vòng thành chính khép kín. Nội thành có hình chữ nhật, nội thành chỉ có một cổng, trên mặt thành có 18 gò đất nổi lên làm nhiệm vụ canh giữ. Những tháp canh này được xây dựng phía trước pháo đài. Pháo đài có 5 cổng và cũng có những ngọn đồi cao hơn pháo đài. Thành có ba cửa ra vào, bên ngoài thành có hào nước, quanh năm có nước làm tăng thêm sự vững chắc cho thành Cổ Loa.
Nỏ Liên Châu: Đây là vũ khí độc nhất vô nhị ở đất Âu Lạc. Nỏ Liên Châu do Cao Lỗ chế tạo, bắn được nhiều phát liền, mũi tên bọc đồng sắc bén. Nỏ là bộ phận quan trọng nhất của nỏ Liên Châu. Nỏ được làm bằng sừng hoặc gỗ đặc có hình móng rùa và gồm nhiều bộ phận.
5. Một số đặc điểm khác của cư dân Văn Lang Âu Lạc:
– Thức ăn của họ rất phong phú như cá, tôm, cua, ốc, nghêu… được chế biến theo nhiều cách tùy theo sở thích của từng vùng, từng gia đình. Việc phát triển chăn nuôi và săn bắn đã giúp họ có thêm nguồn thức ăn. Một số loại trái cây nhiệt đới như vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu… Các loại thực phẩm và chất dinh dưỡng của người Việt xưa rất phong phú và đa dạng, giàu tinh bột, đạm và nhiều chất dinh dưỡng. Nó thể hiện sự phát triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ. Họ biết sử dụng nhiều loại gia vị thảo dược.
-Trang phục của người Âu Lạc – Văn Lang phản ánh trình độ phát triển, gu thẩm mỹ và bản sắc văn hóa của người Việt cổ. Do nghề dệt phát triển mạnh nên họ đã sản xuất ra nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, sợi gai, tơ tằm, bông… để đáp ứng nhu cầu ăn mặc của nhân dân. Trong cuộc sống hàng ngày, nam thường đóng khố, nữ mặc váy.
– Người Việt Nam thích uống trà, ăn trầu, đánh răng, xăm mình, có hai kiểu tóc phổ biến là tóc ngắn xõa và tóc búi cao. Kiểu tóc ngắn ngang lưng để xõa rất được nam giới thời bấy giờ ưa chuộng. Búi tóc được cả nam và nữ ưa chuộng, có người còn tết một dải nhỏ giữa trán và chân tóc hoặc búi dài ở phía sau.
– Phương tiện di chuyển phổ biến của họ là thuyền trên sông rạch. Thời kỳ này có nhiều loại thuyền như xuồng, ván gỗ và xe được kéo bởi các loại gia súc như trâu, bò.
– Người Việt sống thành làng, làng quần tụ thành một vùng hình thành quần cư, lâu dài thường gọi là kẻ, chạ, chiềng. Người Việt cổ làm nhà sàn để ở. Trong nhà rông có mấy kiểu nhà như nhà sàn, nhà gỗ, tre, nứa, mái cong, sàn thấp, mái nhà sàn thò ra như mái rơm, cầu thang lên xuống.. Bằng chứng có thể thấy rõ trong Đông Sơn trống đồng.