Cùng chúng tôi tìm hiểu những bài phân tích khổ 1 Tràng Giang hay nhất qua bài viết dưới đây nhé
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang của Huy Cận :
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm.
Thân bài:
– Tác giả đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng sông Hồng rộng lớn đã tạo nên những hình ảnh vừa chân thực nhưng lại vô cùng gợi hình.
Có dòng sông dập dềnh sóng vỗ, giữa dòng có con thuyền nhỏ và cành cây khô.
Hình ảnh “sóng gợn”: gợi hình ảnh mặt nước bao la, gợn lăn tăn trên mặt sông => Nỗi buồn man mác trong lòng nhà thơ.
Hai từ “trang giang”: là từ Hán Việt, kết hợp với hai âm “ang” vừa tạo âm vang cho câu thơ, vừa gợi cảnh sông dài, đất rộng, cổ kính.
Điệp từ: Sóng nối tiếp nhau => Nỗi buồn miên man, không nguôi trong lòng tác giả, một nỗi buồn cụ thể.
– Một chiếc thuyền xuất hiện giữa mênh mông nước
Con thuyền không ngược mái chèo, đi ngược sóng mà buông mái chèo “chui”, một cách thụ động, mặc cho dòng nước xiết.
=> Con thuyền hiện ra thật nhỏ bé giữa dòng sông, bồng bềnh, vu vơ.
=> Nghệ thuật “đối”: gợi nỗi buồn thân phận lan tỏa trong tâm hồn Huy Cận, bản thân ông cũng như con thuyền kia, bơ vơ giữa sóng đời, buông xuôi, mặc cho những thăng trầm của cuộc đời.
– Bức tranh “Con thuyền về… ngả”:
Hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca
Thuyền và nước tưởng như đã gặp nhau, hứa hẹn sẽ ở bên nhau, nhưng ở đây, gặp nhau một lúc rồi lại chia xa.
Hình ảnh “con thuyền về nước”: gợi cảnh chia ly, chia lìa.
“Trăm mối”: Mối dài rộng nghìn dặm.
– Bức tranh “Củi… vài dòng”:
Đầu tiên là nghệ thuật đảo ngữ nhằm nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước.
Nhấn mạnh sự nhỏ bé, lẻ loi của chiếc que nhỏ giữa mênh mông sông nước.
“Cành khô”: Gợi sự thanh đạm khô cằn, thiếu sức sống
“Mấy dòng”: Vừa gợi cảnh sông nước mênh mông, vừa gợi hình ảnh cuộc đời xuôi ngược, vô vàn bước không biết bước nào.
=> Một cành củi khô lạc lõng giữa mênh mông nước => Một con người cô đơn giữa cuộc đời, mang trong lòng nỗi buồn khôn nguôi.
– Tác giả đã sử dụng hiệu quả phép so sánh trong khổ thơ (buồn điệp điệp – nước song song, buồn trăm phương – lạc mấy dòng) và thất ngôn => tạo nên sự tương phản lớn giữa kẻ cô đơn và lẻ loi.
Kết luận chung:
Khổ thơ gợi nỗi buồn sâu lắng của tác giả trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, gợi sự chia ly, xa cách giữa con người với nhau, không có sự trao đổi của hoa, đặc biệt tác giả muốn nhấn mạnh nỗi buồn của kiếp người nhỏ bé, nông nổi, bấp bênh trước cuộc đời.
Về nghệ thuật: Huy Cận đặc biệt sử dụng thành công những hình ảnh giàu sức gợi và vần điệu nhịp nhàng.
Kết bài: đánh giá giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Những bài phân tích khổ 1 Tràng Giang hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài phân tích khổ 1 Tràng Giang hay nhất:
Huy Cận được biết đến là nhà thơ của phong trào thơ mới. Hầu hết các tác phẩm của ông đều tôn vinh vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng chứa đựng nỗi buồn của thế giới. Trong tất cả các tác phẩm, Tràng Giang được đánh giá cao cả về nội dung và nghệ thuật.
Bài thơ được ông sáng tác năm 1939 khi đứng ở bờ nam bến Chàm ngắm sông Hồng. Có thể nói, cảnh quan nơi đây đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho ông.
Khổ thơ đầu chỉ có mấy câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện rõ bức tranh sông nước mênh mông và tâm trạng của nhà thơ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ. Cảnh sắc thiên nhiên được miêu tả qua tâm hồn nhà thơ trở nên mới lạ, độc đáo. Bức tranh màu nước hiện lên rất đẹp với hình ảnh gợn sóng và con thuyền. Sóng chỉ gợn nhẹ nhưng cứ “nhắn nhủ” mãi. Nhờ có sóng mà thuyền cứ xuôi theo dòng nước. Ở hai câu thơ này, tác giả còn sử dụng từ bông huệ để tăng thêm nhịp điệu cho lời ca. Cách dùng từ của nhà thơ khá độc đáo đem lại một điểm mới trong văn chương.
Hình ảnh dòng sông hiện lên thật đẹp qua lời thơ của tác giả. Tuy nhiên, tâm hồn con người ẩn chứa những nỗi buồn sâu thẳm. Chính vì sự tác động đó mà khi đọc hai câu thơ đầu ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn được thể hiện qua từ ngữ. Sông nước bao la là thế nhưng con người mãi mãi chỉ là một sinh vật nhỏ bé giữa đất trời.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh thuyền và nước sau khi song song với nhau thì bị tách ra. Đây là khoảng cách giữa các đại dương. Hình ảnh đó đã được nhân hoá để tăng cảm xúc. Cụm từ “buồn trăm bề” đã mang đến cho người đọc cảm giác buồn vô tận. Nỗi buồn ấy như đã lan tỏa khắp không gian. Đọc bài thơ, ta sẽ hình dung ra cảnh đoàn thuyền lênh đênh vô tận trên mặt nước bao la. Hình ảnh con thuyền và dòng sông đối lập nhau làm nổi bật nỗi buồn sâu thẳm của nhà thơ.
Không dừng lại ở đó, nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” điểm xuyết trong cảnh sông nước ấy. Chính yếu tố này đã tạo nên sự cô đơn của con người trước sự bao la của đất trời. Những cành đào cũng bị “héo” thể hiện sự thiếu sức sống của người dân. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng phép đảo ngữ cho cụm từ “củi khô cành khô” cùng với nhịp thơ 1/3/3 nhằm nhấn mạnh thân phận con người bị vùi dập. Đứng trước khung cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy một nỗi buồn da diết. Ông buồn cho thân phận con người, nghĩ về dòng đời trôi nổi. Cuộc sống có nhiều thay đổi, nhưng không ai biết trước điều gì sẽ xảy ra. Con người luôn cô đơn, một mình chơi vơi với những thăng trầm của cuộc đời, không biết đi về đâu.
Qua khổ thơ đầu của Tràng giang, ta đã phần nào thấy được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong cách hiện đại và cổ điển của nhà thơ. Nhờ vậy mà lời thơ gần gũi nhưng vẫn có sức lay động mạnh mẽ trong lòng người đọc. Thêm vào đó là cách đặt nhan đề độc đáo theo lối tả cảnh ngụ ngôn.
Ngoài ra, sự xuất hiện của các từ láy trong khổ thơ 1 mang lại nhiều giá trị biểu cảm. Qua đó, ta sẽ cảm nhận được vẻ quyến rũ, bao la của sông Hồng và sự nhỏ bé của con người trong khung cảnh ấy.
Ngoài ra, Huy Cận còn thành công trong việc sử dụng hình ảnh độc đáo. Có thể bạn không thấy hình ảnh “cành khô” trong thơ ca Việt Nam. Chính sự mới lạ này đã tạo nên điểm nhấn ấn tượng nâng tầm giá trị của tác phẩm.
Phân tích khổ thơ 1 của Tràng giang, ta sẽ cảm nhận được nỗi buồn xuyên suốt đoạn văn. Tất cả những hình ảnh được nhắc đến, tuy gần gũi nhưng hiện ra dưới ngòi bút của Huy thật buồn bã và thiếu sức sống. Bởi lẽ, hồn thơ đang ẩn chứa nỗi buồn mà cảnh lại hiện ra thật buồn.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài phân tích khổ 1 Tràng Giang hay nhất:
Huy Cận thuộc thế hệ những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận được nhiều người nhận xét là mang nỗi buồn nhân thế. Huy Cận đã sáng tác bài thơ Tràng Giang để lại một tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận. Khổ thơ đầu trong bài thơ tả cảnh sông Hồng, qua đó thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên ấy.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Những câu thơ mở đầu đầy cảm xúc thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trước cảnh thiên nhiên rộng lớn. Đọc bài thơ, người đọc sẽ hình dung ra một dòng sông rộng lớn không chỉ dài mà còn sâu. Cụm từ “trang giang” dùng để chỉ một dòng sông dài vô tận. Điệp từ “nhắn nhủ” thể hiện quy luật tự nhiên của sóng sau khi con sóng vỗ vào bờ. Những câu thơ đầu là nỗi buồn, sự u uất, đa cảm của nhà thơ, sóng dường như được nhân hóa thành nỗi buồn của con người, mỗi con sóng vỗ vào bờ là một nỗi buồn, cứ thế tiếp diễn.
Giữa dòng sông ấy hiện lên một con thuyền, một sự tương phản thực sự giữa thiên nhiên rộng lớn và con thuyền nhỏ bé. “Con thuyền” là một hình ảnh hiện thực, dưới góc độ nhìn của tác giả con thuyền như một thân phận nhỏ bé, lênh đênh của kiếp người lênh đênh trên sóng gió cuộc đời. Tác giả sử dụng hình ảnh con thuyền điển hình trong thơ kết hợp với từ “song song” để ám chỉ nỗi buồn sâu thẳm.
Câu thơ thứ ba trong khổ thơ đầu cũng gợi cho người đọc cảm giác chia xa. Thuyền và nước là hai hình ảnh gắn bó mật thiết với nhau nhưng nay lại phải chia xa. Hình ảnh nước trong câu thơ nói đến con người, nước cũng cảm thấy “buồn” và buồn. Điệp ngữ “trăm nỗi sầu” gợi cảm giác buồn man mác lan tỏa khắp không gian trăm phương. Con thuyền cứ trôi, để lại sau lưng một dòng nước sâu lặng im.
Câu cuối của khổ thơ đầu mang đến cho người đọc một hình ảnh lạ so với các nhà thơ khác, đó là hình ảnh “củi khô”. Câu thơ cuối có giá trị gợi hình cao, một khúc củi khô bé nhỏ vô hồn đang lênh đênh trên dòng sông cô đơn, lạc lõng. Cụm từ “lạc mấy dòng” hình như có nghĩa là một nhánh củi khô nhỏ chẻ ngang qua mấy dòng sông. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “gỗ và cành khô” mà viết “gỗ trên cành khô” theo thể thơ 1/3/3, khác hẳn ba câu trên như muốn nhấn mạnh hình ảnh của một nhánh cây khô cũng như thân phận nhỏ bé chôn vùi trong dòng sông đời không biết bến bờ.
Tràng Giang một bài thơ có phần mở đầu rất buồn, những cảm xúc, những hình ảnh thiên nhiên dưới góc nhìn của tác giả đều vô hồn, cũng như tâm trạng buồn của chính thi nhân và tình cảm của mọi người.
3. Bài phân tích khổ 1 Tràng Giang ấn tượng nhất:
Bài thơ “Tràng Giang” được viết vào thời kỳ trước cách mạng với cảm giác buồn man mác, gợi lên sự bế tắc trong cuộc đời chìm nổi của kiếp người. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó tả.
Tràng giang không chỉ là bài thơ hay của Huy Cận mà còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng Giang là bài thơ tả cảnh quê hương, bày tỏ tình yêu quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ nói lên nỗi cô đơn, bơ vơ của con người giữa chốn bồng lai quê hương của mình.
Tràng Giang in trong Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm 19. Như nhà thơ Huy Cận đã nói, bài thơ này lấy cảm hứng từ sông Hồng, sông Chèm Vẽ và những dòng sông khác. nhưng lại là bài thơ về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối thoát nên dường như kéo dài vô tận. Điều này được thể hiện rất rõ trong khổ thơ đầu tiên.
Trước hết, chúng ta lưu ý tên bài thơ là Tràng Giang, không phải “Trường Giang” để không nhầm với sông Dương Tử (Trung Quốc), hay những dòng sông dài nói chung. Trong tiếng Việt, “Tràng Giang” thường được đưa vào thành ngữ “Tràng Giang Đại Hải” để chỉ một hiện tượng dài vô tận nhưng trống rỗng đến phát chán.
Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước miên man:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay khổ thơ đầu, bài thơ không chỉ nói về dòng sông mà còn nói về nỗi buồn, về một nỗi buồn vô tận, bằng những hình ảnh ẩn dụ: gợn sóng, như buồn man mác. Ở giữa dòng sông, điểm nhìn của nhà thơ hội tụ về những con sóng nhỏ, tuy nhiều, nhưng hiện rồi biến. Con thuyền thường là biểu tượng của cuộc đời lênh đênh, lẻ loi, bất trắc, ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi theo dòng nước nhưng thuyền và nước chỉ “song hành” chứ không gắn bó với nhau. Vì nước trăm nước, thuyền đi phương nào? Thuyền trôi theo dòng nước rồi chia tay. Câu thơ thứ ba nói về sự chia ly. “Thuyền về quê lại buồn”. Con thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Dòng nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối của đoạn này thể hiện sự tập trung vào kiếp người nhỏ bé, lạc lõng, vô định: “Lạc mấy đường lạc mấy dòng cành khô”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào những vật thể nhỏ bé: con sóng, con thuyền, củi khô.
Tác giả lưu ý rằng nó không phải là một cái cây, mà chỉ là một “cành cây khô”, một mảnh khô gãy của thân cây.
Cả khổ thơ đầu vẽ nên một không gian sông nước mênh mông, vô định, rời rạc, dửng dưng. Những dòng: nước song song, buồn điệp điệp, buồn trăm phương, lạc mấy dòng chẳng hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia ly, xa vắng. Trên dòng sông ấy, con thuyền và lũ lũ nhỏ bé hơn, bơ vơ hơn. Ở đây không chỉ có cánh buồm buồn và cành khô, mà còn có những gợn sóng và dòng sông buồn.