Nhắc đến Nguyễn Trãi, chúng ta nhớ ngay đến tác phẩm nổi tiếng “Bình ngô đại cáo”. Đây được coi là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Phân tích đoạn 1 bình ngô đại cáo để thấy tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bà thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc.
Mục lục bài viết
1. Dàn bài phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi hay nhất- Mẫu 1:
Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo
+ Nguyễn Trãi là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba, nhà văn nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
+ Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc ta.
– Dẫn dắt và nêu vấn đề: nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
Thân bài: Phân tích nội dung đoạn 1 Bình Ngô đại cáo
Luận điểm 1: Tư tưởng nhân nghĩa.
– “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
+ Nhân: người, tình người (theo Khổng Tử)
+ Nghĩa: việc làm chính đáng vì lẽ phải (theo Mạnh Tử)
– “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi:
+ Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
+ Cụ thể hóa với nội dung mới đó là “trừ bạo” – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
-> Tác giả đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh đồng thời phân biệt rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
=> Tư tưởng của Nguyễn Trãi là sự kết hợp tinh túy giữa nhân nghĩa và thực tiễn dân tộc, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – là cuộc khởi nghĩa nhân nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
Luận điểm 2: Lời tuyên ngôn độc lập.
– Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục:
+ Nền văn hiến lâu đời
+ Cương vực lãnh thổ riêng biệt
+ Phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
+ Lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
– Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
-> Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lí không thể chối cãi.
=> Ở đây, Nguyễn Trãi đã đưa ra thêm ba luận điểm nữa là văn hiến, phong tục, lịch sử để chứng minh quyền độc lập, tự do của đất nước so với bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên là “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.
Luận điểm 3: Lời răn đe quân xâm lược.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.”
Nguyễn Trãi đã sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lí:
+ Lưu Cung – vua Nam Hán thất bại với chủ ý thu phục Đại Việt.
+ Triệu Tiết – tướng nhà Tống thua nặng khi cầm quân đô hộ nước ta.
+ Toa Đô, Ô Mã,… là các tướng nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng khi cầm quân xâm lược.
=> Lời cảnh cáo, răn đe đanh thép những kẻ bất nhân bất nghĩa dám xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền dân tộc ta đều phải trá giá đắt, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của nhân dân Đại Việt.
Đặc sắc nghệ thuật
– Ngôn ngữ đanh thép
– Giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ
– Sử dụng các biện pháp so sánh, liệt kê,…
– Sử dụng những câu văn song hành,…
Kết bài
– Khái quát lại nội dung đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo.
2. Nội dung và nghệ thuật:
Giá trị nội dung:
– Bình Ngô cũng là bản kiểm điểm các cuộc chiến đấu oanh liệt nhằm nâng cao lòng kiêu hãnh, niềm tự hào vô tận về thắng lợi của cách mạng, ngợi ca tài lãnh đạo và khí phách anh hùng của nhân dân.
– Đoạn thơ có ý nghĩa vô cùng to lớn với nước việt nam, chứng minh nhân dân chúng ta có tinh thần tự chủ và nền độc lập riêng biệt của mình. Đoạn trích giúp ta làm sáng tỏ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử chiến đấu oai hùng của ông cha mình ngày trước, từ đó bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, quyết bảo vệ, giữ gìn và phát triển độc lập chủ quyền nước nhà.
Giá trị nghệ thuật:
– “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không những là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự phối hợp hài hoà giữa yếu tố tư tưởng và yếu tố nghệ thuật.
– Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: liệt kể, phóng đại, so sánh, đối lập….
3. Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi hay nhất:
Nguyễn Trãi không những là nhà ngoại giao, chính trị kiệt xuất và tài năng, còn là nhà văn thi sĩ nổi tiếng của việt nam. Nhắc đến ông là ta nghĩ ngay về tiểu thuyết lịch sử “Bình ngô đại cáo”. Đây có thể nói là tác phẩm sử thi hùng văn bất hủ, là lời tuyên bố đanh thép, mạnh mẽ cho sự độc lập và địa vị việt nam. Nhan đề Ngô đại cáo đã gợi mở với chúng ta biết bao ý nghĩ. Ngô có nghĩa là giữ vững. Bình nơi đây chỉ quân Thanh. Đại cáo là tờ báo đầu tiên ghi dấu quan trọng trong các vấn đề lớn của quốc gia. Ngay tại tiêu đề đã toát ra một tinh thần oai hùng.
Đọc đoạn 1 bình ngô cáo có thể khẳng định tư tưởng nhân văn là chủ đề xuyên suốt của bà thơ đã được ông nêu rõ một cách toàn diện và sâu sắc. Chúng ta sẽ thấy ngay tư tưởng nhân văn, niềm tự hào và tự tôn dân tộc đã biểu hiện ngay từ đoạn 1 của bài thơ.
Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Các lời khen của ông đã thể hiện rõ ràng hơn về khái niệm nhân nghĩa. Theo phạm trù của Khổng Tử thì nhân nghĩa là các mối liên hệ giữa người với nhau căn cứ trên nền tảng tình cảm và đạo đức. Việc nhân nghĩa là mục đích đấu tranh của những người cách mạng. Việc nhân nghĩa là vì dân, phục vụ đất nước. Theo quan điểm của Nguyễn Trãi, xuất phát từ tư tưởng Nho nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho đời sống của người dân yên ổn và thoải mái. Lấy nước làm nhà là lẽ đương nhiên ngàn đời nay. Đây cũng là những mơ ước suốt cả cuộc đời Nguyễn Trãi đeo đuổi.
Việc nhân nghĩa còn có nghĩa là trừ bạo, cùng nhau trừng phạt các người áp bức, xâm lược, nô lệ để đem tới hoà bình và ấm no cho nhân dân. Nói rộng hơn loại trừ ác là đánh lại giặc ngoại xâm. Cũng đã chỉ rõ ràng người là thiện, mà giặc là ác. Ông đã lật tẩy tính tàn bạo của giặc Minh đối với cuộc xâm lăng này. Tóm lại, tinh thần cách mạng của Nguyễn Trãi đó là tình yêu nước, thương nòi cùng ý chí đánh giặc xâm lược mãnh liệt, đã đem đến cho nhân dân tránh được sự nghèo đói, cực khổ và đưa về ấm no cho nhân dân.
Tư tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi đó là tình yêu nước, thương nòi và ý chí đánh giặc ngoại xâm mãnh liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ ở trong giới hạn giữa con người với con người mà còn rộng hơn là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc
8 câu tiếp tác giả đã xác định bản sắc dân tộc và nhấn mạnh ý nghĩa của độc lập qua việc kể những trang lịch sử oai hùng của dân tộc việt nam một cách vô cùng vinh quang, kiêu hãnh.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Tác giả minh chứng khẳng định đầy thuyết phục. Nước Đại Việt chúng ta đã hình thành từ trước với truyền thống văn hiến đã có rất lâu và phát triển theo nhiều nghìn năm lịch sử. Ở đây tác giả sử dụng chữ “xưng” nhằm bày tỏ niềm kiêu hãnh đồng thời nhấn mạnh vai trò và vị trí của nước việt nam.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, tác giả nhắc đến văn hiến, lịch sử, mà còn đề cập cả văn hoá, lịch sử, truyền thống, con người cùng tài năng đất nước. Như vậy, tất cả đều là các nhân tố mới có thể hình thành nên một đất nước độc lập. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt thì Ngô cáo không chỉ đẹp nữa mà còn sâu sắc và bao trùm cả ở tư tưởng cũng như tinh thần xuyên suốt. Ông tuyên bố biên giới “Núi sông bờ cõi đã chia” nên không kẻ thù nào có thể xâm nhập hay cướp lấy. Hơn nữa, phong tục tập quán và con người mỗi miền Bắc Nam cũng khác biệt nhau không thể nào lẫn lộn, biến đổi hoặc phá bỏ nó.
Thậm chí khi đề cập về những triều đại trị vì xây dựng nền tự chủ, ông đã so sánh các triều đại Triệu, Ngô, Lý, Đinh ngang với “Tuỳ, Đường và Tống Nguyên của Trung Quốc vừa có ý ca ngợi lại cũng có ý đối chọi. Điều ấy cho thấy niềm tự hào dân tộc mạnh mẽ và ý thức lòng tự tôn, tình yêu đất nước rất lớn lao của tác giả. Và bất cứ triều đại nào, thời đó thì nhân tài luôn có. Khi vừa bày tỏ tình yêu đất nước, lại vừa răn đe với kẻ địch âm mưu thôn tính Đại Việt. Nguyễn Trãi không những khẳng định chủ quyền toàn vẹn đất nước, còn có lòng tin tưởng vững chắc với nhiều lớp nhân tài kiệt xuất và nguyên khí quốc gia. Đặt ở trong bối cảnh thời đó thì nhận định ấy phần nào cũng phản ánh tư duy đổi mới và sáng tạo của văn hào Nguyễn Trãi.
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sau khi khẳng định chủ quyền dân tộc, đề cao sự tự trọng và tinh thần dân tộc, nhà thơ đã dùng phương pháp so sánh để chỉ rõ các kết cục của người đi ngược với chân lý. Những dẫn chứng của ông qua nhiều thế hệ hết sức hợp lý. Lưu Cung là vua Hán bị thất bại do tham vọng mong muốn chinh phục Đại Việt; Triệu Tiết tướng của nhà Tống đã thua nặng khi hành quân đến đô hộ nước ta, Toa Đô, Ô Mã. .. là những tướng của nhà Nguyên cũng từng bỏ mạng tại nước ta khi họ đi xâm lấn. .. “Chứng cớ còn ghi”, không thể nào phủ nhận nữa. Đây cũng là lời cảnh báo, lên án mạnh mẽ với bằng chứng cụ thể, thuyết phục và rõ rành rành những kẻ phi chính nghĩa khi xâm hại đến bờ cõi của đất nước ta. Mượn lời thơ này, ông nói với kẻ thù: bất cứ kẻ nào muốn xâm phạm bờ cõi Đại Việt thì sẽ phải chịu thất bại thảm hại. Cuộc chiến đánh trả quân xâm lược để giải phóng đất nước là một cuộc chiến vì công lý và lẽ phải, nó không giống những cuộc chiến tranh thông thường khác, bởi vậy, cho dù như thế nào đi chăng nữa thì chính nghĩa luôn luôn thắng kẻ thù theo quy luật của tự nhiên.
Với giọng văn dõng dạc, hùng hồn, lập luận chặt chẽ, mạch lạc cùng cách trình bày khoa học, song đôi của các đoạn văn này đã khẳng định và ngợi ca giá trị lịch sử to lớn của nước Đại Việt. Đoạn mở đầu của Bình ngô cáo như một khúc dạo đầu đầy khí phách và tự hào khẳng định chủ quyền Đất nước. Những vần thơ hùng hồn cùng những dẫn chứng xác đáng và luận điểm sắc bén mà nhà thơ đưa ra đã mang lại giá trị lớn lao của tinh thần dân tộc việt nam, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng chọn dân làm gốc, nhất định sẽ chiến thắng. .. Bình ngô cáo là áng văn thơ có thể ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc. Qua từng áng thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta lại thêm tự hào với cội nguồn, lịch sử và văn hoá của dân tộc.
4. Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ý nghĩa nhất:
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà ngoại giao và quân sự kiệt xuất, đã có công to lớn đối với việc đánh đuổi giặc Nguyên mang về nền hoà bình lâu dài cho đất nước. Ông cũng là một nhà văn thi sĩ nổi tiếng với số lượng tác phẩm khổng lồ gồm cả văn học chữ Hán và quốc ngữ. Trong đó có thể nói tên các tác phẩm tiêu biểu như Đại cáo bình Ngô,Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập. .. Đại cáo bình Ngô có thể nói là tác phẩm “Thiên cổ hùng văn” vô cùng kinh điển, là lời tuyên bố đanh thép, mạnh mẽ khẳng định quyền độc lập và địa vị quốc gia. Trong sách, nổi bật là đoạn kết tác phẩm với tư tưởng dân tộc sâu sắc thể hiện rõ:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục đích đấu tranh hết sức cao đẹp và lớn lao của quân khởi nghĩa Lam Sơn. Trong lời cáo nguyễn trãi là tư tưởng ái quốc. Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi ở lam sơn là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” cũng là để dân có đời sống no ấm, đầy đủ, lòng dân có vững vận nước mới mạnh và mới tiến bộ được. Tác giả đưa vào “yên dân” như vậy để xác định tư tưởng “lấy dân làm gốc” là xu thế chung trong các thời kỳ là nền tảng, là sức sống và sinh khí của một đất nước.
Nguyễn Trãi thật sự thông minh để tìm thấy và giải quyết thành công vấn đề cốt lõi đó. Việc nghĩa cuối cùng sẽ là “trừ bạo” ý nhắc về giặc Ngoại xâm, vì chúng chuyên đi sâu bóc lột người dân. Bọn họ nhẫn tâm đánh đập, cướp và nhấn chìm dân mình trong sâu thẳm của nỗi thống khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc trên tưởng chừng như không dính dáng gì nhau này đều là hai nhân tố có tính tương hỗ, bổ trợ lẫn nhau, nhưng nếu không an dân thì diệt loạn khó thành nên cần phải chú ý và thực hiện đúng thời điểm để phối hợp với nhau. Mang đến sự bình yên, ấm no cho dân cũng tương đương với việc phải đấu tranh diệt trừ kẻ thù của dân và trừng trị các tên quan lại tham nhũng, đặc biệt là lũ “cuồng Minh” chà đạp lên đời sống nhân dân, tạo nên biết bao hoạ.
Đáng chú ý, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không đơn thuần là vấn đề đạo đức hẹp mà còn là một lý tưởng lớn: phải biết lo để người dân được hưởng cuộc sống ấm no và bình yên. Điều đặc biệt hơn nữa là từ đây, Nguyễn Trãi đẩy lý tưởng và nỗi lòng đó phát triển trở thành một chân lí. Ông không đề cập đến nhân nghĩa một cách cụ thể mà chỉ với một hai câu thơ ngắn đã đi sâu để xác định cái căn bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Yêu thế, nhân nghĩa luôn đi cùng với nhiệm vụ giữ gìn chủ quyền quốc gia, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và nền độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập. Nếu như 400 năm trước đây, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt cũng khẳng định có hai vấn đề là đất đai và biên giới trên tinh thần quốc gia cùng thống nhất dân tộc thì trong Ngô cáo, Nguyễn Trãi đã đưa ra bốn yếu tố khác nhau gồm văn hoá, lịch sử, phong tục tập quán và hiền tài. Đây cũng là sự khẳng định cho biết tài năng của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hoá ngàn năm không ai mà so sánh nổi, rừng, đồi núi, sông ngòi, đồng bằng và biển hoàn toàn có thể phân chia rạch ròi. Phong tục tập quán cũng thể ở các miền Bắc và Nam cũng vậy.
Ở câu thơ, Nguyễn Trãi nhấn mạnh rằng Trung Quốc và Đại Việt cùng có nhiều nét riêng biệt không thể nào lẫn lộn, thay thế hoặc phá bỏ được. Cùng với đó là những tư tưởng riêng biệt để xác lập chủ quyền. Qua đó, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của việt nam ngang với “Hán, Đường ở Tống, Nguyên” của Trung Quốc, điều ấy cho chúng ta biết rằng nếu không có lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ sẽ không thể nào có những liên tưởng vô cùng độc đáo và sâu sắc như thế. Cuối cùng vẫn là nhân tài, con người cũng là điều kiện cơ bản nhất quyết định sự tồn tại của dân tộc mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu mỗi lúc khác nhau” nhưng hào kiệt thì bao giờ cũng có, câu thơ thay lời cảnh báo cho những ai, nhóm người đó và nước nào mong muốn tôn tính Đại Việt.
Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần và đầy đủ hơn về lịch sử của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt thì Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn, sâu sắc và đầy đủ cả trong hình thức cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra, nhằm khẳng định nền tự chủ của nước ta, tác giả còn sử dụng lối viết so sánh nước việt nam và Trung Quốc: về địa lý, phong tục – hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta cùng với bốn triều đại của Trung Quốc mà nhân tài thời nào cũng có đã chứng minh ta không bao giờ thua họ.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng những từ ngữ mang tính chất hiển nhiên vốn có khi nói về sự ra đời của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia” và “cũng khác” đã khiến cho sức hấp dẫn tăng gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng đồng thời là lời cáo – đó là lối viết này mà nhà thơ sử dụng triệt để. Phần còn lại của đoạn thơ là chứng cớ nhằm khẳng định sự tồn tại và về những cuộc chiến trước với phương Bắc trong lịch sử chúng đã thất bại là chứng cớ khẳng định rõ ràng nhất:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến đánh đuổi quân ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Cách trình bày, đưa ra chứng cứ cụ thể, chi tiết, trung thực đã được ghi nhận với những lời lẽ đanh thép, hùng hồn, khơi gợi lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã đạt lên một tầm cao mới khi mô tả đầy đủ, xác thực các chiến công hiển hách của quân và dân việt nam: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”, . . thêm vào đó là thái độ khinh bỉ, căm ghét với sự thất bại của những tên địch không biết tự kiểm sức: “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết. .. thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều bị chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định chân lý: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, chủ quyền, có người giỏi, có tướng tốt, không thua gì bất kỳ một quốc gia khác. Nhưng kẻ nào có ý định thôn tính, lật đổ đại việt sẽ phải nhận kết cục thảm hại. Cuộc chiến đánh tan kẻ xâm lược để giải phóng đất nước là một cuộc chiến vì công lý và lẽ phải, nó không giống những cuộc chiến tranh thông thường khác, bởi vậy, cho dù như thế nào đi chăng nữa thì chính nghĩa luôn luôn thắng trận theo quy luật của tự nhiên.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng lãng mạn và đầy tính sử thi hiếm có. Trong thực tế, phần mở đầu này, với ngôn ngữ trữ tình, đã nêu lên hai nội dung chính gần như toàn bộ bài văn là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì thế, đoạn này có giá trị vô cùng to lớn với nước ta, chứng tỏ nhân dân đại việt có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng biệt của mình. Đoạn thơ giúp bạn nắm vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc cũng như lịch sử chiến đấu oai hùng của ông cha chúng ta ngày trước, từ đó bồi đắp tinh thần yêu nước, tự hào về dân tộc, quyết bảo vệ, giữ gìn và phát huy độc lập chủ quyền nước nhà.
5. Nhận xét chung:
Phần một của bài cáo là một lời tuyên bố rất hùng hồn và tràn đầy tự hào với đất nước: Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến vô cùng tốt đẹp và vì lấy “nhân nghĩa” làm triết lý sống còn cho nên mới có cái nền văn hiến lâu đời đến thế, mới đánh thắng cả lũ xâm lăng phương Bắc, những kẻ không có tí “nhân nghĩa” nào. Hơn nữa, trong phần một của bài cáo, ta cũng cảm nhận rõ tấm lòng của Nguyễn Trãi với đất nước: Ông vô cùng tự hào về dân tộc mình và ông đã bộc lộ niềm tình yêu tổ quốc rất mạnh mẽ. Tấm lòng đó chắc chắn sẽ không hề phai mờ theo năm tháng và lịch sử. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi Đại cáo Bình Ngô, giống như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai đầy hào sảng của dân tộc Đại Việt.