Tư xưa đến nay, nhân nghĩa là lòng thương người và sự đối xử với người theo lẽ phải, là thái độ, tình cảm, việc làm đúng đắn, phù hợp với đạo lí của dân tộc Việt Nam. Bài thơ Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi thể hiện tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc, sau đây là một số mẫu viết phân tích về phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo siêu hay.
Mục lục bài viết
- 1 1. Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo:
- 2 2. Tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm trong Bình Ngô đại cáo:
- 3 3. Dàn Ý Tư Tưởng Nhân Nghĩa Trong Bình Ngô đại cáo:
- 4 4. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo ngắn gọn hay nhất:
- 5 5. Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo siêu ý nghĩa:
1. Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo:
Theo Nho giáo: Nhân nghĩa thực chất là tình cảm con người, là mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên sự thương yêu, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.
Theo Nguyễn Trãi: Cấm mọi thế lực tàn ác ức hiếp dân chúng, để cho cuộc sống con người luôn bình yên, no ấm và hạnh phúc đó mới là nhân nghĩa
2. Tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm trong Bình Ngô đại cáo:
– Khẳng định chủ quyền dân tộc;
– Lên án tố cáo tội ác của kẻ thù;
– Nền tảng sức mạnh của dân tộc;
– Chính sách nhân nghĩa với kẻ thù.
3. Dàn Ý Tư Tưởng Nhân Nghĩa Trong Bình Ngô đại cáo:
Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, tóm tắt chính trị · Tác giả Nguyễn Trãi, tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” · Nội dung: Bài cáo không những tố cáo tội ác của quân giặc, ngợi ca cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà chứa đậm tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc
Thân bài
Nêu sự sâu sắc về nhận thức của tác giả đối với tư tưởng nhân nghĩa
Nêu các tư tượng nhân nghĩa trong tác phẩm.
Kết bài:
Khẳng định giá trị của tư tưởng nhân nghĩa: Thế hệ hôm nay phải giữ gìn và phát huy đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của truyền thống uống nước nhớ nguồn, luôn đưa tư tưởng nhân nghĩa, tinh thần nhân đạo lên trên hết trong các tình huống.
4. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo ngắn gọn hay nhất:
Nguyễn Trãi không những là một nhà quân sự kiệt xuất của dân tộc mà ông cũng là nhà thơ, nhà văn chính luận hàng đầu của nền văn học trung đại Việt Nam với các tác phẩm nổi tiếng được in ra bằng chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt khi nhắc về các bài văn chính luận của Nguyễn Trãi không thể nào chúng ta không nhớ tới “Bình Ngô đại cáo” – một tác phẩm do Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi soạn để mở đầu cuộc chiến tranh với quân Minh. Tác phẩm đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc khi có thể coi là “Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc”.
Có thể xem Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, và Bình Ngô đại cáo là ba cái mốc cho những con đường lịch sử vẻ vang của dân tộc trong văn học trung đại Việt Nam. Tuy nhiên, Nam quốc sơn hà và Hịch tướng sĩ là hai bước của giai đoạn thực hiện các cuộc kháng chiến cứu nước thần thánh để bảo vệ sự độc lập và tự do của quốc gia Đại Việt. Bình Ngô đại cáo nằm ở một giai đoạn khác, hào hùng hơn và vinh quang hơn, giai đoạn đánh bại giặc ngoại xâm để giải cứu nhân dân khỏi ách nô lệ. Nói cách khác, Bình Ngô đại cáo xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử có những điểm đặc biệt so với thời Lí Trần.
Sự thất bại của hai cuộc kháng chiến mà Giản Định và Trùng Quang chỉ huy đã khẳng định rằng sứ mệnh lịch sử của nhà Trần đã kết thúc. Trong bối cảnh đó, vị hào trưởng bình thường đất Lam Sơn nhận chân được rõ ràng sức mạnh hay là vai trò lịch sử lớn lao, có tính quyết định của yếu tố nhân dân đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc trước ách thống trị của giặc Minh. Được lòng dân, quy tụ sức mạnh toàn dân chính là yêu cầu to lớn của lịch sử đề ra với những người tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Dựa vào dân là nhờ có sức mạnh. Có chính nghĩa thì mới thành công. Đây cũng là tư tưởng chủ đạo của thời đại kháng Minh mà Nguyễn Trãi đề cập ở đoạn kết bài Cáo: “Nhân nghĩa chi cử yếu tại an” Suốt toàn bài, số lượng từ ngữ và hình ảnh liên quan về dân chiếm một tỉ lệ tương đối cao so với những tác phẩm của nhiều thời kì trước đó trong lịch sử. ưu miêu tả hình ảnh người trai quý tộc yêu nước, khao khát lập công trạng. Dân trong bài cáo là tập hợp của dân đen, đàn bà (thương sanh, xích sinh) , các phu, dịch, những người còng lưng mài ngọc, đã đi tìm kiếm vàng trong những Kim Trường Cục Châu Trường Dục, những người cày ruộng và cả tên nô lệ (manh lệ). Đó là các tầng lớp thấp nhất của giai cấp thống trị song vẫn chiếm lĩnh ưu thế trên mảnh đất Đà Việt ngàn đời sinh sống và làm giàu nhờ phát triển kinh tế xã hội. Thơ văn Lí Trần ít chú ý đến quần chúng mà chủ yếu là khắc hoạ chân dung của các nhà quan lại. Nó chứng tỏ rằng thực tiến lịch sử của thời đại kháng Minh cần được phá bỏ lối nghĩ cũ bị chi phối chặt chẽ về giai cấp và các trật tự phong kiến đề cao vai trò của quần chúng thời Lí Trần. Sau này, trong tác phẩm của mình, Nguyễn Trãi cũng thường nhắc đến vai trò lịch sử của nhân dân mà ông đã ý thức được ngày càng xuất sắc trước, trong và sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Phúc chu dĩ tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
(Lật thuyền mới biết dân như nước
Cậy hiểm khôn xoay được mệnh trời)
(Quan Hải)
Hoặc
Ở yên thì nhớ lòng xung đột
Ăn lộc đền ơi kẻ cấy cày
(Báo kính cảnh giới – 19)
Tư tưởng lòng dân là kim chỉ nam xuyên suốt và tạo nền tảng về tinh thần của toàn bộ bài cáo. Có dân là có nghĩa. Nhân nghĩa thực chất là phải biết thương dân. Dân là người căm phẫn với sự cai trị của đế quốc và cũng vì dân, nhóm người dùng gậy thay thế cờ (Yết can vi kỳ manh lệ chi đồ tử tập) sẽ lớn mạnh, đồng lòng, tạo nên một cơn bão dữ diệt hết kẻ thù.
Xuất phát từ Khổng học, tư tưởng nhân nghĩa của Trung Quốc, thực chất, không thực thi cho tầng lớp đường lệ thấp kém được Nho giáo gọi là những kẻ tiểu nhân bởi về nghĩa của từ thì nhân nghĩa là mối quan hệ hài hoà giữa người với người trong một xã hội, một cộng đồng. Theo Khổng học, tiểu nhân là loại kẻ không thích sách hiền nên học thuyết nhân nghĩa không thể áp dụng cho họ. Trong Luận ngữ, Khổng Tử nhấn mạnh nhiều lần sự khác biệt của người quân tử với kẻ tiểu nhân: “Quân tử có ý thức sống đẹp vì người nên không làm điều xấu nhưng tiểu nhân thì trái lại “;” Quân tử lo đến sức khoẻ còn tiểu nhân lo chuyện đất đai, . .. Quân tử lo cho việc nghĩa, tiểu nhân lo việc công Điều nghĩa là con đường, điều lễ là cánh cửa, chỉ có người quân tử mới được đi con đường đó và bước vào cánh cửa ấy 4 Mạnh Tử phát biểu: “Dân vi quý xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, thực chất là nói đến một thứ chính trị được lòng dân và chữ dân của ông cũng giới hạn trong tầng lớp hằng sản. Ông khẳng định: “Nếu người dân không hằng sản thì họ không có hằng tâm” và “không có người quân tử thì lấy ai cai trị kẻ thôn quê”.
Tư tưởng này của Nguyễn Trãi là bước tiếp nối đầy sáng tạo học thuyết Nho giáo bởi lẽ, chữ dân trong lời cáo phần lớn là để chỉ tầng lớp thấp nhất trong xã hội phong kiến, còn manh lệ là đen, con đỏ. .. Điều này cũng phù hợp với thực tiễn lịch sử cùng truyền thống nhân
Địa lí (sông núi nước Nam) , Chính trị (vua Nam ở) , Kính trời (thiên thư) hay trong
Hịch quan tâm sâu sắc đến vấn đề địa lý và các chi phổi nặng của hệ thống đại điền đang phát triển mạnh mẽ thời Trần, Nguyễn Trãi phát biểu cụ thể, rõ nét trên cơ sở thời Lí, Trần:
Địa lí (núi sông bờ cõi đã chia)
Nền văn hoá phong kiến (vốn xưng nền văn hiến đã lâu) .
Yếu tố lịch sử, văn hoá, tập quán (phong tục Bắc – Nam cũng khác)
Yếu tố triều đại phong kiến (từ Triệu, Đinh, Lí, Trần.)
Người tài giỏi (song hào kiệt đời nào cũng có)
Truyền thống lịch sử vẻ vang (Lưu Cung tham công nên thất bại).
Đây là đoạn văn có tính khái quát các nhân tố hình thành một cộng đồng dân tộc. Nó thể hiện cách tiếp cận mới, hệ thống, toàn diện, kế thừa, phát triển đã qua kiểm chứng từ trong thực tế lịch sử. Stalin có một định nghĩa tạm gọi là tương đối hoàn thiện và dân tộc: Dân tộc là một khối cộng đồng ổn định tồn tại qua lịch sử dựa trên nền tảng cộng đồng về ngôn ngữ, văn hoá, các hoạt động xã hội và đời sống chính trị bên trong cộng đồng đó. So với định nghĩa này, ta sẽ cảm thấy quan điểm của Nguyễn Trãi thay đổi thế nào trong thời gian ấy.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không những là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự pha trộn rất nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và ca. Trải qua rất nhiều ngàn năm thăng trầm lịch sử đất nước nhưng giá trị và ý nghĩa lớn lao của bài cáo này vẫn giữ vẹn nguyên giá trị cho tận ngày nay. Phần kết của bài cáo nêu lên rõ ràng mối quan hệ hữu cơ giữa 3 yếu tố: Nhân – Dân – Nước. Chính mối quan hệ này mới là cơ sở cho tất cả các chân lý của áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo.
5. Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo siêu ý nghĩa:
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng
(
Đã ra đời gần sáu trăm năm, song cho đến hôm nay và muôn đời sau đó, Bình Ngô đại cáo và nhiều tác phẩm khác của Nguyễn Trãi vẫn đi vào lòng người. Tư tưởng hồ chí minh trong thơ văn Nguyễn Trãi thấm sâu, ngay khi kết thúc Bình Ngô đại cáo ông nhận xét:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Vậy nhân nghĩa là như thế nào? Nho giáo cho biết: Nhân nghĩa là quan hệ tốt của người với người trong xã hội. Khái niệm này mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc, hết sức nhân văn và cao đẹp. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều cơ bản của nhân nghĩa là phải biết làm yên lòng dân. Vì thương dân, để giúp dân sống lương thiện hơn nên phải diệt bạo là từ những người nhũng nhiễu dân.
Từ những hành động mang tính cá nhân của Nguyễn Trãi đã nâng lên trở thành tư tưởng xã hội. một nhiệm vụ cụ thể, theo như Đinh Gia Khánh thì tư tưởng nhân nghĩa là không trừu tượng, nó bám sát với thực tế. Cũng bởi nhân nghĩa, lòng yêu dân mà Nguyễn Trãi xem các hành động dã man của quân Minh đối với dân như châm lửa đốt nhà, đào hầm nhằm bắt được nhiều người hơn là những việc làm phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng phải chịu hình phạt. Do vậy có nghĩa là Việc nhân nghĩa, hành động này không phải một cái gì mơ hồ, trừu tượng, vấn đề nó thể hiện ở Việc thực tế, là đánh giặc ngoại xâm nhằm dẹp yên bờ cõi, đập tan những trận cướp của triều đình để bảo vệ đất nước nhà vua sáng, tài hiền. Việc đó phải hoàn toàn giao cho lực lượng vũ trang. Nguyễn Trãi không mơ hồ trong việc giải phóng đất nước có thể sử dụng tư tưởng cách mạng này để đốt sạch ngoại xâm, hoà bình muôn thuở, mà còn cần có sức mạnh của cả quân đội và sức mạnh của đại nghĩa.
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Không chỉ lấy nghĩa để thắng hung, không dùng nhân thay bạo, mà ở đây sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn là cường bạo. Nướng dân đen trèn ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Tội ác trời không dung, đất không tha ấy của giặc Minh:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Tội ác đó phải chịu trừng phạt Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Quân ở đây là nhân dân: Tổ chức đội quân đại nghĩa – chí nhân nhằm đánh thắng quân cường bạo giặc Minh. Vậy là triết lí này của Nguyễn Trãi xét cùng là hết lòng vì nước thương nhân dân. Đó chính là dân tộc. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ Cáo Binh Ngô, nó là ánh sáng kỳ diệu để Nguyễn Trãi bày tỏ một quan điểm về độc lập dân tộc và vì thế ông đã miêu tả lại đất nước rất rõ, đầy đủ, khoa học. Trong từng câu của bài cáo trang trọng, rất đĩnh đạc và tự tin.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Trải qua bao nhiêu biến cố lịch sử, Nguyễn Trãi để lại cái chữ đế mang tinh thần độc lập tự chủ như thế. Nước Đại Việt có lãnh thổ, có lịch sử. có phong tục và có văn hoá, tức là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể lệ thuộc để sống. Mọi mưu toan muốn chuyển nó lên quận, huyện chư hầu sẽ phải gánh chịu tai hoạ. Lịch sử đâu đã quên
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Thế mà giờ bọn giặc Minh: Mượn tiếng gọi dân xử tội, lại làm việc tàn ác, đánh chiếm nước mình, bóc lột nhân dân ta, thuế cao hình phiền, vơ vét của quí, dân mọn làng xóm không được bình yên. Nhân nghĩa mà thế là âm? (Bài 8 Quân Trung từ mệnh tập) . Cái thế đứng của một dân tộc có truyền thống trọng nhân nghĩa thì sẽ bằng mọi cách để kẻ thù nếm trải đắng cay như cha ông ta đã gánh chịu vì thói tàn ác sai đạo, kiêu ngạo, thủ đoạn. ..
Sức mạnh nhân nghĩa của dân tộc việt nam lấy bạo đánh nhanh, lấy ít địch đông đã làm nên chiến thắng.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô, mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa, kẻ thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc
Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông…
Miêu tả cuộc tấn công tiêu diệt kẻ thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam không hề có nhiều trang hùng ca sáng chói như vậy. Đội quân làm nên chiến thắng đó cũng chính là đội quân đã quyết định lấy nhân nghĩa để sống, vì dân mà diệt bạo.
Nhân nghĩa là sức mạnh của chiến thắng. Chí nhân, đó là nền tảng của đạo lý dân tộc ta ngàn đời nay nhằm xây dựng nền văn hoá và phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Ở đây Nguyễn Trãi đã nêu cao đạo lý uống nước nhớ nguồn, gắn với nhân nghĩa để hành động.
Coi trọng con người, quý trọng thiên nhiên và đề cao tinh thần đoàn kết của các dân tộc. Chúng ta không vì sự tàn bạo của địch để trả đũa lại các hành vi dã man. Có gì quí hơn tính mạng con người? Người cũng là hoa của đất nên nhân nghĩa sau cuộc chiến là tấm lòng, là trí tuệ giúp khắc phục các hậu quả, để Bốn phương biển cả thanh bình, . .. Còn bọn chúng đã bị giam cầm thành hổ đói vẫy đuôi cầu xin cứu giúp. Chúng ta đã không giết hại mà để chúng đường sống. Chúng ta có quyền lực để xử lý tội ác chiến tranh và có đủ sức mạnh để trừng trị, tuy nhiên nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều này khi bọn giặcđã hèn nhát mà hối lỗi thực lòng. Chúng ta tha lỗi cho chúng để kết thúc tội ác trong tương lai, sẽ làm như vậy không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được thoả sức trong yên bình:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Nghĩa là tư tưởng nhân nghĩa và hành động nhân nghĩa của nguyễn trãi đã toàn thắng. Ta đã đạt mục tiêu, không cần thiết phải cư xử với những kẻ địch không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay từ khi động viên quân dân đi đánh giặc, ông cũng hết sức đồng cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị thiệt hại trong cuộc chiến. Nguyễn Trãi đã vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: Chúng lại muôn cùng binh độc vũ, làm nhân dân ta cả năm đều chết ở chốn gươm đao, còn kẻ khác thì tan gan ở nơi đồng cỏ (Bài 28 – Quân Trung từ mệnh tập) .
Bình Ngô đại cáo xét trên phương diện nghệ thuật thì đây là tác phẩm tiêu biểu về chù nghĩa nhân đạo và minh chứng mạnh mẽ cho trận thắng của quân dân Đại Việt trước giặc Minh. Triết lí nhân đạo của Nguyễn Trãi tiềm ẩn ví như mỏ quặng quí buộc ta phải biết khai phá, bồi bổ, nhưng nổi bật trên bề mặt lộ thiên của nó lại là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm với dân. Vì yêu nước thương dân nên Nguyễn Trãi có nhiều nhận thức sâu sắc trong tư tưởng về nhiệm vụ của đội quân nghĩa, như Tổ quôc và Bốn phương biển cả thanh bình. Bởi yêu dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép giữa cuộc chiến tranh đã thành một tác phẩm sống dậy mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm đi qua, Nguyễn Trãi – người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, tư tưởng lớn vĩ đại vẫn sống mãi trong lòng dân tộc khi nhiều thế hệ con cháu thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao sự tích thần kỳ, bao thắng lợi vang dội, ví như cuộc chiến tranh chống Mĩ Chú tịch Hồ Chí Minh đã tiếp nhận tư tưởng nhân nghĩa đó để đối đãi tử tế với những kẻ không tặc. Bọn giặc đã đem bom đạn đến sát hại nhân dân ta tàn phá đất nước mình, gieo rắc biết bao mất mát đau khổ cho nhân dân trên mọi miền đất nước, thế mà khi bắt sốngchúng, ta vẫn đối đãi tử tế với và khách sạn Hintơn, rồi sau ngày toàn thắng 30/04/1975 trả lại cho phía Mĩ. Phải chăng đó là sự khởi nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
Đem đại nghĩa thẳng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo