Cầm kì thi họa ám chỉ con người tài hoa giỏi giang. Sau đây là một số phân tích về câu nói đánh giá phẩm chất tài năng con người của Trung quốc " Cầm kỳ thi họa".
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái niệm về cầm kì thi họa:
- 2 2. Cầm (琴) – ý nghĩa của cầm trong câu nói: ” Cầm kỳ thi họa”:
- 3 3. Kì (棋) – Nhân sinh bách tính giống như bàn cờ trong câu nói: ” Cầm kỳ thi họa”:
- 4 4. Thi (詩) – Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi (Trong thơ có họa, trong họa có thơ):
- 5 5. Hoạ (畫) trọng câu nói ” Cầm kỳ thi họa” :
1. Khái niệm về cầm kì thi họa:
Cầm kì thi họa là nhân tài cũng có thể hiểu là người giỏi đủ loại như biết chơi đàn chơi nhạc thông thạo hoạ tranh viết thơ. Để xác định xem người ấy có tài hay không thì họ sẽ phải căn cứ vào việc thông thạo kiến thức về hội hoạ.
Cầm: Đàn cổ hình ống máng úp, có năm hoặc bảy dây tơ; thường dùng trong văn học cổ để chỉ đàn nói chung. Người có tài năng đánh đàn thú vui tao nhã thời xưa. Kỳ hay còn hiểu là chơi cờ ở đây chỉ người có thuật chơi cờ giỏi tinh thông. Thi và họa là làm thơ và vẽ tranh thể hiện tâm hồn và con người của tác giả từ chữ viết từ câu từ có thể thấy tài năng của người nghệ sĩ thể hiện không chỉ tính cách và cả góc nhìn của họ. Người hội tụ cả 4 tài năng cầm kỳ thi họa là người tài hoa. Câu nói Cầm kỳ thi họa được dùng để đánh giá phẩm chất tốt đẹp của con người thời xưa như một chuẩn mực được lan truyền rộng rãi.
2. Cầm (琴) – ý nghĩa của cầm trong câu nói: ” Cầm kỳ thi họa”:
“Chẳng ngôn ngữ nào êm dịu và trầm lắng cho bằng ngôn ngữ của thi ca
Chẳng âm điệu nào thiết tha cho bằng cung thanh trầm của khúc nhạc…”
Âm nhạc giúp tâm hồn thanh thản, luôn vui vẻ hạnh phúc và để thực hiện được điều ấy đòi hỏi phải có người nghệ sĩ tài hoa hoặc những mỹ nữ thời xưa tấu nên các điệu đàn, bài nhạc đi sâu vào lòng người.
Ở thời cổ đại có một khúc nhạc tên “Hoa tư dẫn” khá nổi tiếng. Khúc nhạc này bắt nguồn từ khi một vị hoàng đế cai trị đến năm thứ 15, ông rất lo sợ vì thiên hạ không an yên mà buồn không ngừng, một đêm trong giấc mơ ông cảm thấy một nơi là Hoa Tư Quốc nhân dân nơi đây cuộc sống an nhàn, hạnh phúc không đuổi theo các dục vọng của con người, không có thiện và ác, không bon chen giành giật. Khi ngủ dậy thì ông ngộ ra rằng đạo trị quốc theo cách như trong Hoa Tư Quốc và nhờ vậy thiên hạ đổi thay. “Hoa Tư Dẫn” đơn giản là để ca ngợi thế giới hoà bình và khuyến khích con người không tham dục vọng.
Người dân ở Hoa Tư Quốc không tham lam và cũng không lưu tâm đến sinh mạng, cho nên họ không có nhiều ham muốn đấu tranh. Đó mới là cảnh giới của sự học đạo, bởi vì văn hoá cổ cầm cũng là một loại tu luyện. Các nhà nho thích đánh đàn, cầm cũng gọi là quân tử bởi vì nho gia tin vào cổ cầm có thể mang lại đạo, tương tự như đức, có thể minh sáng trí huệ và bình tâm thiền. Đạo gia yêu đàn bởi vì đàn là vật có thể giúp cho thân tâm luyện trí.
3. Kì (棋) – Nhân sinh bách tính giống như bàn cờ trong câu nói: ” Cầm kỳ thi họa”:
Trong một trận thi đấu cờ, não chúng ta sẽ được ở trong trạng thái suy nghĩ, tính toán liên tục nhằm cho ra các quân cờ độc đáo, mới lạ, từ đó thúc đẩy trí sáng tạo, chống lại sự chậm chạp, lười biếng, tăng năng lực phán đoán và tư duy logic. Quy tắc chơi cờ vây cổ rất đơn giản nhưng linh hoạt tuyệt vời, bàn cờ tượng trưng cho vũ trụ, điểm ở giữa biểu hiện cho tâm vũ trụ, ba trăm sáu mươi điểm tượng trưng cho ba trăm sáu mươi ngày lịch cũ, quân cờ trắng đen đại diện cho những chuyển động của đêm và ngày, bốn góc bàn cờ biểu thị bốn mùa trong năm. Từ một bàn cờ nhỏ nhỏ đã tượng trưng cho một thiên thể vũ trụ, 19 đường văn cờ giăng khắp nơi, như rộng lớn, bao la vạn tượng. Từ trong bàn cờ mà tiến tới vũ trụ bao la. Có nhiều vị thần trong lịch sử đã nhận ra sự biến đổi của thiên tượng và thế giới vạn vật từ trong ván cờ. Theo cách Gia Cát Lượng thời Tam Quốc viết trong “Vây Cờ Ca “:” Bầu trời giống như một cái vòng tròn còn lục địa thì như một ván cờ “.
Bên cạnh đó, thời gian chơi cờ tướng cũng là quãng thời gian để trí não con người luôn ở trong trạng thái thư giãn và không còn những mối âu lo thường nhật dẫn dắt.
Chính vì thế, người chơi cờ tốt sẽ có những tư duy nhạy bén, sáng suốt hơn trong công việc và giúp họ thư giãn, bình tâm lại trong nhiều vấn đề của xã hội
4. Thi (詩) – Thi trung hữu họa, họa trung hữu thi (Trong thơ có họa, trong họa có thơ):
Thi (詩) có nghĩa là văn tự bất kỳ một thời đại đó hay dân tộc nào, tinh hoa nghệ thuật đều phải ở dưới sự kết hợp với “hình thế và tinh thần” của văn tự, nếu không như vậy thì nghệ thuật sẽ mất hết linh hồn cùng tinh thần của nó; có thần chết thì nghệ thuật mất luôn cả tải thể, mất đi “đồ chứa đựng” của nó.
Thời cổ đại khi Thương Hiệt mới tạo nên chữ viết, ông đã cho mọi người thấy rõ tinh thần của nó, từ đấy phải mất bao thế hệ, nhiều người mới phát hiện được thứ gọi là nghệ thuật thư pháp và làm cho văn tự một hình dáng thực thể đẹp đẽ hơn nữa. Một thư pháp tốt chú trọng ở “pháp độ”, nó yêu cầu một thời gian dài luyện tập, người làm thư pháp bên trong phải có trí tuệ, tinh thần và tu dưỡng. Do đó người xưa mới có câu “Thấy chữ cũng như thấy người”.
Sưu tầm một số bài thơ hay thể hiện nhân cách tình người sự tài trí tài hoa tinh tế tài năng của người xưa như:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng hoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa
Khi em trở thành bức tường khô trắng
Sau những ước mơ, những hy vọng đã tàn
Anh hãy là bản vĩ cầm da diết
Dội vào tường và tường cũng âm vang
(Tôn Nữ Thu Thủy – Anh hay là âm nhạc)
Lưng trời xanh nhẹ màn sương
Mặt hồ xanh những nỗi buồn đuổi nhau
Người đi xa đã từ lâu
Mà mùa thu đến vẫn đau lá vàng
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Thời gian như ngọn gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may
(Xuân Quỳnh)
Vấn vương với sợi tơ trời
Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan
(Đoàn Thị Tảo)
Một khoảng trống trên bàn có em vắng mặt
Thành bao khoảng trống trong tôi…
(Thanh Ứng)
Không phải là sao đổi ngôi
Chấm sáng xa xôi mà gần gũi lắm.
(Mai Ngọc Uyển)
Đã hết rồi thời đứng cổng trường con gái
Đợi ai về lẽo đẽo theo sau
Đã hết chờ dương cầm vang vọng
Điệu Rumba khắc khoải mối tình đầu
(Lê Minh Quốc)
Mùa hạ leo cổng trường khắc nỗi nhớ vào cây
người con gái mùa sau biết có còn gặp lại
ngày khai trường áo lụa gió thu bay…
(Đỗ Trung Quân)
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
(Nguyễn Du)
Nỗi cô đơn dịu dàng, như một thói quen
choàng lên vầng trăng ẩm ướt
(Nguyễn Đông Nhật)
Đất trời hồi hộp cùng anh
Có em về nữa là thành mùa thu…
(Bế Kiến Quốc)
Chiếc lá cuối cùng rồi cũng bỏ thu đi
Trơ mùa đông với thân bàng gầy guộc
Nắng chầm chậm dìu ngày lụi bước
Ảo ảnh hồng khép lại trước hoàng hôn.
(Bùi Sim Sim)
5. Hoạ (畫) trọng câu nói ” Cầm kỳ thi họa” :
Họa có nghĩa là vẽ hoặc theo một cách hiểu, là ngôn ngữ nhằm chuyển tải tư tưởng của người nghệ sĩ trong những tác phẩm hội hoạ bằng kỹ thuật và phương pháp của người nghệ sĩ. Công cụ vẽ cổ truyền gồm có cọ, bút, phấn bột, giấy lớn, vv. .. Đề tài có thể chia thành người vật, phong cảnh, hoa lá chim các loại, kỹ thuật bao gồm có kỹ thuật dùng bút và kỹ thuật viết chữ. Các bức hoạ cổ thường được vẽ kết hợp với thư pháp, đường vẽ có thể là nét ngang hay theo phong cách mềm mại, rõ nét hoặc sắc sảo hơn, cũng như biểu hiện cho sự bất đồng giữa khí chất và ý vị khác nhau của người nghệ sĩ.
Thi và Hoạ thường có cùng một một mục đích nên cả 2 rất chú ý về nét đẹp và khí chất riêng biệt. Một hoạ gia tốt có thể đem người và vật vẽ với màu sắc rực rỡ nhất. Người xưa nếu tán thưởng một bức tranh thì sẽ có câu: “Trong thi có hoạ, trong Hoạ có thơ”. Thi có hoạ cũng chỉ biểu lộ cho ta biết hơi thở của đời sống mỗi ngày.
Trên đây là bài viết về câu tục ngữ Cầm kỳ thi hoạ, thông qua bài viết này chúng ta có thể biết Cầm kỳ thi hoạ thật tuyệt diệu vẹn toàn và đó là nghệ thuật kỳ diệu của người xưa truyền dạy. Qua tác phẩm ta có thể hiểu Cầm kỳ thi hoạ là như thế nào và cảm nghiệm về văn hoá thần học với những ý nghĩa sâu sắc. đó tất cả các nghệ thuật này còn chứa đựng chân lý sâu xa của vũ trụ, gợi cảm hứng cho nhiều người khám phá cuộc sống và hình thành nhân cách lý tưởng đạo đức, hiểu biết thế giới.